TRAN XUAN AN - TIEU SU BN. PCDT. NGUYEN VAN TUONG [ 2 ]

Cuốn sách này, tác giả biên soạn để làm sách dẫn, phục vụ việc nghiên cứu "Đại Nam thực lục chính biên" (IV, V, VI); đồng thời, đây cũng chính là đề cương chi tiết của bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử của tác giả: "Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886)" (Nxb. Văn Nghệ TP. HCM., 2004). Trần Xuân An.

22.2.06

TIỂU SỬ BIÊN NIÊN PCĐT. NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tệp 11)


TRẦN XUÂN AN
(biên soạn)

TIỂU SỬ BIÊN NIÊN
KÌ VĨ PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)
“kẻ thù lớn nhất
của chủ nghĩa thực dân Pháp”

(tiếp theo)
(Tệp 11)
(chương chín [chương cuối])


i. CHƯƠNG CHÍN

XXII. THỜI BỊ CHÍNH PHỦ THỰC DÂN PHÁP RA LỆNH BẮT VÀO GIA ĐỊNH, LƯU ĐÀY RA CÔN ĐẢO VÀ LƯU ĐÀY BIỆT XỨ TẬN TA I TI (TAHITI) VỚI BẢN CÁO TRẠNG CỦA TƯỚNG GIẶC CÔ RA XI (DE COURCY)


++ Cô Ra Xi (De Courcy) bắt thái phó, Cần Chánh điện đại học sĩ, lãnh thượng thư Bộ Lại, sung Cơ mật viện đại thần, Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường, giải giao vào Gia Định. Tại Gia Định, ông bị giam giữ cùng 2 người đã bị bắt vào trước đó: Tôn Thất Đính, Phạm Thận Duật. Sau đó, cả ba người đều bị đày ra Côn Đảo, rồi lại bị đày sang Ta I Ti (Tahiti), một quần đảo đã trở thành thuộc địa của Pháp, giữa Thái Bình dương, chếch về phía trung phần châu Mỹ.
Bản cáo trạng do tên thực dân Tham Bô (De Champeaux) đọc về Nguyễn Văn Tường, nội dung như sau:
1. Nguyễn Văn Tường chống nước Pháp từ rất nhiều năm nay.
2. Từ khi làm phụ chính đại thần với Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường đã đổng suất quân binh đánh Pháp.
3. Trong thời gian sau ngày kinh đô quật khởi (23-5 âl., Ất dậu [05-7-1885]), Nguyễn Văn Tường được Cô Ra Xi (De Courcy) xin chính phủ Pháp gia hạn hai tháng (lệnh bắt lưu đày đã có từ trước) để lo liệu việc nước và đặc biệt là việc Bắc Kỳ được “lặng yên vô sự” (nguyên văn). Đến ngày 27-7 âl., Ất dậu (05-9-1885) này là hết hạn hai tháng đó. Nhưng kì thực, ở các tỉnh tả kì, có nhiều nơi vẫn còn nổi quân giết dân Thiên Chúa giáo.
4. Do đó, nay Cô Ra Xi (De Courcy) thừa lệnh chính phủ Pháp, kết án Nguyễn Văn Tường: tội lưu đày biệt xứ.
Hôm ấy, lúc chở Nguyễn Văn Tường ra đến cửa biển Thuận An (Thừa Thiên – Huế), cũng là lúc Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình vào đến cửa biển đó (27-7 âl., Ất dậu [05-9-1885]).
Sau đó mấy tháng, trên chuyến tàu lưu đày, khởi hành từ Côn Đảo (*), Phạm Thận Duật chết vì bệnh, bị buông xác xuống biển. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Đính bị đày đến tận quần đảo Ta I Ti (Tahiti) thuộc Pháp. Như thế, theo chúng, Tôn Thất Đính cũng là trọng phạm (**).
(sđd., tr. 247).
---- (*) Lần này, tàu thủy giặc Pháp mới chở gồm cả hai người lần lượt bị bắt vào trước đó.
(**) Tôn Thất Đính được Pháp phóng thích, đưa di thể Nguyễn Văn Tường về đến Huế, Quảng Trị vào tháng giêng âl., Đinh hợi (1887). Về quá trình chống Pháp và vai trò của ông trong và sau cuộc kinh đô quật khởi, ngụy vương Đồng Khánh cho rằng tội của Tôn Thất Đính không phải nhẹ, nên sai Bộ Binh canh giữ (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 248). ----

++ Cô Ra Xi (De Courcy), Tham Bô (De Champeaux) đưa văn thư, và cũng cáo thị khắp cả nước:
~~ Trả thành trì kinh đô Huế
~~ Rước tam cung về cung điện
~~ Quan lại sáu bộ vào đóng tại Thành nội, làm việc như cũ
~~ Trả các vật hạng trong kinh thành
(sđd., tr. 247 – 248).
++ Từ Dũ nhắc lại việc triều Nguyễn không có lệ để đàn bà buông rèm nghe chính sự (“thùy liêm thính chính”) ; do đó, phải lập vua mới (theo ý Pháp). Trong thời gian hai tháng vừa qua, Từ Dũ phải buông rèm nghe chính sự, là do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, phải “ngộ biến tòng quyền” (gặp sự biến, ph ải tùy theo đó mà ứng xử cho thích hợp) .
(sđd., tr. 248).
Xin lưu ý các điểm sau đây:
Trong tháng 7 âl., Ất dậu (1885) này: Vụ Quảng Ngãi và vụ Bình Định khác nhau về “ngọn cờ khởi nghĩa”; do đó, vụ Quảng Ngãi bị dập tắt, vụ Bình Định lại được tạo ra việc nghẽn đường giả để ủng hộ, cuối cùng là “rộng tha” (nguyên văn) bằng hiểu thị.
Ngoài ra, hai bản dụ của Từ Dũ trước khi Nguyễn Văn Tường bị bắt là khá thách thức thực dân Pháp và tả đạo Thiên Chúa giáo. Đồng thời, cần hiểu rõ bản cáo trạng của giặc Pháp về Nguyễn Văn Tường bằng các sự kiện ở các tập trước (1850 – 1883), đặc biệt là tập này (1883 – 1885) và ở tập 37 (1885 – 1886) (*): quá trình đấu tranh chống thực dân Pháp của ông.
---- (*) Xem: ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 33, 35; tr. 133, 134, 136 và tr. 138… ----

+++ Tháng tám âl..
++ Hoàng Hữu Thường (thự hữu tham tri Bộ Binh, quản lí Thương bạc sự vụ): đổi thự hữu tham tri Bộ Hộ, làm việc ở Viện Cơ mật.
(ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 248).
++ Miên Định tâu xin kêu gọi các quan ra làm việc, và đề nghị xử phạt, xét bổ.
(sđd., tr. 248).
++ Dụ của Từ Dũ: Pháp trấn giữ phía nam (từ Quảng Nam đến Bình Thuận), phía bắc (từ Quảng Trị đến Thanh Hóa); quan lại các tỉnh làm việc như cũ. Cô Ra Xi (De Courcy), Tham Bô (De Champeaux) hứa: Về sau, Pháp sẽ giao lại cho lính Đại Nam. Pháp bàn tính để Từ Dũ ra sắc dụ cho dân yên tâm (!!!).
(sđd., tr. 248 – 249).
++ Ngày 04-8 âl., Ất dậu (12-9-1885): Kiên Giang hầu vào thành làm vua (Pháp đã bàn việc này từ cuối tháng 7 âl., Ất dậu [1885]). Miên Định, Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình phụng dụ, bá cáo cho toàn dân:
~~ “Nghịch thần” (nguyên văn) Tôn Thất Thuyết làm hỏng việc (!!!).
~~ Hàm Nghi bị ép buộc, không về được. Pháp bảo phải có vua mới trả thành trì kinh đô Huế.
~~ “Ba tháng bỡ ngỡ, bốn biển ầm vang…” (nguyên văn). Sự thể không kéo lại được!
~~ Ưng Kỹ làm vua. Ngày 06-8 âl., Ất dậu (1885): vào kinh thành; ngày 11-8 âl., Ất dậu: làm lễ tấn quang.
Phiến tấu đề tên Tham Bô (De Champeaux) lên vị trí thứ nhất, trên cả Miên Định, Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình! Tham Bô (De Champeaux) đề nghị đề thêm tên của Cô Ra Xi (De Courcy) (*). Ưng Kỹ dẫu đã bị giáng xuống tước hầu từ trước, nay vẫn chép là quận công Kiên Giang!
(sđd., tr. 249 – 251).
---- (*) Cô Ra Xi (De Courcy), về quyền lực là tối cao, nhưng không thuộc chức sắc của triều đình Huế như Tham Bô (De Champeaux). ----
Chính cái tên Tham Bô (De Champeaux) ở vị trí thứ nhất trong danh sách triều thần, trên cả quan nhiếp chính giám quốc (Miên Định), đã nói lên sự thật về một triều đình đã hoàn toàn mất hết quyền lực. Việc Pháp lập cả hoàng đế Đại Nam càng làm rõ hơn: Đại Nam đã hoàn toàn mất nước vào tay thực dân Pháp!

Xin lưu ý:
Từ đầu tháng 5 âl., Ất dậu (1885) đến đây, người biên soạn (Trần Xuân An) đã lược ghi đầy đủ các chi tiết, kể cả chi tiết nhỏ nhất. Hơn hai tháng được gọi là bước ngoặt lịch sử đã chấm dứt (Nguyễn Văn Tường đã bị lưu đày). Từ đấy, lịch sử Đại Nam đã trượt sang giai đoạn khác: Triều Nguyễn đã thực sự là bù nhìn trong tay giặc Pháp.
Người biên soạn (TXA.), từ kỉ đệ lục ĐNTL.CB. (tập 37 – 38), chỉ ghi chép lại những gì liên quan đến nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (cũng chỉ trong tập 37).
Từ tập 37, người biên soạn (Trần Xuân An) sẽ diễn đạt lại các sự kiện với các chi tiết theo quan điểm khác hẳn với quan điểm mà từ đấy đã là quan điểm chính thống của triều đại Đồng Khánh. Quan điểm ngụy tặc ấy đã chi phối, áp đặt vào sử học của Quốc sử quán triều Nguyễn (và Quốc sử quán đã thuận theo để lưu lại sự thật lịch sử?). Đó là quan điểm đánh giá với tiêu chí ngược, trái nghịch với đạo lí yêu nước của dân tộc và công lí của nhân loại. Quan điểm của ngụy triều Đồng Khánh thể hiện rõ ở kỉ đệ lục (2 tập 37 – 38) như sau:
~~ 1. Gọi người yêu nước, chống Pháp và trung nghĩa đích thực bằng “giặc”, “bè đảng làm loạn”, “quyền thần”…
~~ 2. Gọi thực dân Pháp, bọn tay sai, nịnh hót Pháp và ủng hộ triều đình Đồng Khánh bù nhìn, phản dân hại nước, bằng “ngài” và bằng những từ ngữ tôn xưng khác. Trong loại này, có cả “tả đạo”.
~~ 3. Gọi những kẻ thuộc lực lượng dựa vào Pháp, câu kết chặt chẽ và mật thiết với Pháp để chống người yêu nước, chống đạo lí dân tộc và, đặc biệt là còn chống cả nhà Nguyễn, cụ thể ở giai đoạn này là ngụy triều Đồng Khánh, cũng bằng giặc. Đây là những tên đầu sỏ lợi dụng giáo dân, là bọn lính ma tà, thừa cơ cướp phá, làm suy yếu chính quyền phong kiến bù nhìn để chính quyền này ngày càng oèo uột trong tay giặc Pháp thực dân…


++ Trước đây, lúc chỉ còn một mình Nguyễn Văn Tường ở lại Huế, chính Nguyễn Văn Tường đã tâu xin tam cung cho Miên Định làm nhiếp chính, và cho người đi tìm Ưng Kỹ đang lẫn khuất trong nhà dân về tạm nghỉ ở phủ đệ Tĩnh Gia quận công. Khi đón rước vua Hàm Nghi không được; chính Nguyễn Văn Tường đã có ý định lập Ưng Kỹ làm vua (*).
(ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 23).
---- (*) Thực dân Pháp làm sức ép. Từ Dũ, Miên Định, Nguyễn Văn Tường đành thuận theo và đành phải lập Ưng Kỹ bởi không còn ai trong diện có thể (Ưng Kỹ là hoàng tử thứ hai của Tự Đức).
Mặc dù đã biết trước, nhưng hẳn ông cũng không ngờ Miên Định (giám quốc) và Ưng Kỹ (quốc vương) tệ hại đến mức như thế! ----

++ Đồng Khánh sai làm lại ấn Ngự tiền chi bảo, Văn lí mật sát (*).
(sđd., tr. 24 và tr. 149).
---- (*) Hai loại ấn này, trước đây, Nguyễn Văn Tường sau khi tâu đề nghị vua Hàm Nghi và tam cung xuất hành ra khỏi kinh thành để lánh nạn, đã cho người mang theo. Sau khi nhận sắc dụ (sắc văn) phải ở lại giảng “hòa” với Pháp, qua trung gian cố đạo Lộc (Caspar), ông đã giao lại hai chiếc ấn ấy cho Tôn Thất Thuyết. Tôn Thất Thuyết đến lúc này vẫn giữ bên mình. ----
++ Nguyễn Hữu Độ lên án “quyền thần” (!!!).
(sđd., tr. 26).
++ Tháng trước (tức là tháng 7 âl., Ất dậu [1885]), thân hào Quảng Trị đã cùng với quân Vũ Lâm thuộc tỉnh ấy nổi dậy, khởi nghĩa (*).
(sđd., tr. 26 – 27).
---- (*) Đúng vào ngày Nguyễn Văn Tường bị lưu đày (xem: Jabouille, bài “Một trang viết về lịch sử Quảng Trị: tháng 9.1885”, NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. TH., 2002, tr. 439.). ----
++ Chiếu lên ngôi của Đồng Khánh (Ưng Kỹ) vẫn lên án “quyền thần” (!!!).
(sđd., tr. 29).
++ Ngụy vương Đồng Khánh viết thư gửi sang Pháp. Trong bức thư hèn hạ của tên vua ngụy này, có đoạn: “Ngày 23 tháng 5 năm nay, kinh thành thất thủ, hai người ấy [Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết], thực là căn nguyên tai vạ…”.
(sđd., tr. 33).

XXIV. THỜI ĐÃ BỊ THỰC DÂN PHÁP LƯU ĐÀY VÀO GIA ĐỊNH, CÔN ĐẢO VÀ LƯU ĐÀY BIỆT XỨ TẬN TA I TI (TAHITI), LẠI CÒN BỊ NGỤY TRIỀU ĐỒNG KHÁNH BÙ NHÌN KẾT ÁN, TRUY ĐOẠT HẾT QUAN CHỨC, HÀM TƯỚC, TỊCH BIÊN HẾT GIA SẢN, VÀ XUYÊN TẠC, BÔI NHỌ ĐỂ HẠ UY TÍN…

++ Tôn nhân phủ và đình thần (lúc này hầu hết là cánh chủ “hòa”, vâng lệnh Pháp) dâng sớ tâu bày “tội trạng” (nguyên văn) những người tạo nên cuộc kinh đô quật khởi (*) và kết án:
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết bị tước đoạt hết hàm tước và tịch thu hết gia sản; Trương Văn Đễ (**) đã quá cố, Trần Xuân Soạn “đều là bè đảng làm loạn” (nguyên văn), cũng bị tước cả quan chức; phải bắt bằng được và chém ngay Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn.
(sđd., tr. 35).
Đây là bản án chung thẩm.
Xin xem trích đoạn nguyên văn ĐNTL.CB. ở cuối tệp này.
Danh sách bị kết án trên gồm bốn người chủ chốt của cuộc kinh đô quật khởi 22 – 23-5 âl., Ất dậu (04 – 05-7-1885). Phạm Thận Duật hóa ra chỉ là một nhân vật rất mờ nhạt. Tôn Thất Lệ có trực tiếp cầm quân đánh Sứ quán, nhưng vốn ở Sơn phòng Quảng Trị được điều động về bất chợt và chỉ thừa hành, nên cũng không bị giặc Pháp và ngụy triều Đồng Khánh xếp vào loại “bè đảng làm loạn” (nguyên văn).
Như vậy, rõ ràng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã phân công cho nhau: nhiệm vụ “kẻ ở” là đàm và nhiệm vụ “người đi” là đánh. Do đó, Nguyễn Văn Tường đã sử dụng thủ thuật “không biết gì hết” (nguyên văn) trong cuộc kinh đô quật khởi (23-5 âl., Ất dậu 1885) để có thể ở lại Huế điều đình với thực dân Pháp. “Không biết gì hết” , thực chất chỉ là động tác giả. Hai tháng sau ngày 23-5 âl., Ất dậu 1885, Nguyễn Văn Tường vẫn nhất dạng, không thay đổi lập trường chống Pháp, và vẫn nhất dạng với Tôn Thất Thuyết.
---- (*) Một lần nữa, xin nhấn mạnh (xem trích đoạn nguyên văn ĐNTL.CB. , tập 37, sđd., tr. 35 ở cuối tệp này). Đây là lọai thông tin bản án. Trong các loại thông tin, loại bản án (có thi hành án) , cáo thị, mật thư, mật dụ… hiển nhiên có độ khả tín cao nhất. Các loại thông tin anỳ được phối kiểm và kiểm chứng bằng suốt cả quá trình hoạt động lâu dài và ở kết thúc cuộc đời của nhân vật lịch sử (bị lưu đày và chết ở chốn lưu đày biệt xứ).
(**) Năm 1890, Trương Quang Đản có dâng sớ chạy “tội”, kêu “oan” cho Trương Văn Đễ, do quyền lợi chính trị thời bị thực dân Pháp “bảo hộ”!?! Chỉ có một trường hợp duy nhất như vậy (xem “Đại Nam liệt truyện”, tập 3, sđd., tr. 425 – 426). Người biên soạn (Trần Xuân An) nghĩ rằng, ngoài việc cùng chủ trương cuộc kinh đô quật khởi, Trương Văn Đễ còn được giao nhiệm vụ cản hậu và đánh lạc hướng truy kích vua Hàm Nghi mà thực dân Pháp cố quyết tiến hành. Riêng chi tiết (cản hậu, đánh lạc hướng) này, cần được nghiên cứu, xác minh thêm. Cũng cần lưu ý (để tìm thêm tư liệu): Trương Văn Đễ và Đinh Tử Lượng, hai người hai cánh quân, với động tác giả tìm theo dấu vết vua Hàm Nghi, đều bị chết ngay trong tháng 7 âl., Ất dậu 1885 (xem lại: tập 36, sđd., tr. 243: Phải chăng cả hai vị đều chết vì bệnh? Phải chăng đều bị giặc Pháp, “tả đạo” đầu độc mà không ai biết được ngoài chúng?). ----

++ Bãi bỏ Nha Sơn phòng Hà Tĩnh.
(sđd., tr. 35).
++ Vốn trước đây vì húy kị tên vua Kiến Phúc (Ưng Hỗ), ở trường hợp đồng âm hoặc gần đồng âm, nên đổi “Bộ Hộ” thành “Bộ Hội”, “hộ vệ” thành “cận vệ” (*). Nay Bộ Hộ xin vẫn dùng như cũ khi làm giấy tờ, bởi lúc trước, câu nệ quá. Ngụy vương Đồng Khánh cho là “Sự ngu của Tường, Thuyết kể làm gì!” (nguyên văn).
(sđd., tr. 36).
---- (*) Ưng Hỗ = Ưng Hộ; tương tự có: Từ Dũ = Từ Dụ; Trần Thúc Nhẫn = Trần Thúc Nhận; Nghệ – Tĩnh = Nghệ – Tịnh; nghĩ xử = nghị xử… Về mặt chữ Hán, chữ Hội (tụ họp) hay hơn, rộng nghĩa hơn chữ Hộ (cái cửa, cái nhà). Chữ Hội trong danh ngữ “Bộ Hội”, phù hợp với nền kinh tế đã phát triển kinh tế hàng hóa, thị trường, không còn tự cấp, tự túc như thời cổ đại (chỉ chăm lo “cái hộ” thôi!). ----
Thật đúng như vua Tự Đức nhận xét về Ưng Kỹ (Đồng Khánh): Học chưa thông mà kiêu ngạo, tâm địa không trung trực, không phải bản chất người thuần lương (di chúc của Tự Đức).
Xem tiếp: Về việc kiêng tên húy của Đồng Khánh, chính Đồng Khánh cũng tránh trường hợp đồng âm hoặc gần đồng âm như vậy! (tập 37, sđd., tr. 81)
.
++ Miên Định nghỉ chức nhiếp lí quốc chính.
(sđd., tr. 39).
++ Đình chỉ huy hiệu hoàng thái phi của Học phi Nguyễn thị; cho là do ý của “quyền thần” (nguyên văn).
(sđd., tr. 39).
Thực ra là do Hiệp Hòa tạo ra tiền lệ, phong cho mẹ ruột trước.
(xem lại: tập 35, sđd., tr. 216 – 217, 246).
++ Triệt hồi tuần phủ Quảng Trị Trương Quang Đản về kinh, vì Trương Quang Đản thuận theo khi thân hào Quảng Trị nổi dậy Cần vương vào cuối tháng 7 âl., Ất dậu [1885] (*)
(sđd., tr. 39 – 40).
---- (*) Đúng vào ngày Nguyễn Văn Tường bị lưu đày. ----
++ Lê Ninh ở Hà Tĩnh khởi nghĩa.
(sđd., tr. 41 – 42).
+++ Tháng chín âl..
++ Hàm Nghi đến Nha Sơn phòng Hà Tĩnh. Thân hào đón tiếp. Liền đó, vua cho dựng thêm nhà cửa, tính kế đóng lâu dài ở đấy.
(sđd., tr. 43 – 44).
++ Tham Bô (De Champeaux) về Pháp; Ba Duy Đam (Proudhomme) thay.
(sđd., tr. 44).
++ Vua bù nhìn Đồng Khánh lên án “quyền thần” (nguyên văn), đồng thời lại không ngớt nịnh hót thực dân Pháp trong tờ chế phong Bảo quốc công cho Ba Duy Đam (Proudhomme).
(sđd., tr. 50).
++ Triệt hồi tổng đốc Bình – Phú Lê Thận về kinh theo lệnh Pháp.
(sđd., tr. 52).
(xem lại: tập 36, sđd., tr. 241 – 242).
++ Vũ Tử Văn: thương tá Quảng Trị. Đồng Khánh dặn dò và răn đe: “… Hiện thời có người nói: Việc quấy nhiễu ở Quảng Trị là tự Tử Văn xướng xuất” .
(sđd., tr. 54).
(xem lại: sđd., tr. 26 – 27, tr. 39 – 40).
++ Khởi binh ở Bãi Sậy (giáp giới Hưng Yên – Bắc Ninh). Cao Xuân Dục đánh thắng quân Cần vương Bãi Sậy (!!!).
(sđd., tr. 54 – 55).
++ Thân hào Phú Yên khởi nghĩa, toan đến Bình Định.
(sđd., tr. 55 – 56).
++ Truy phục nguyên hàm cho Trần Tiễn Thành (*).
---- (*) Ngụy triều Đồng Khánh còn truy phục cho cả Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp… (tháng 11 âl., Bính tuất [1886]; sđd., tr. 222 – 226). Xem thêm: tháng 10 âl., Ất dậu (1885) [bên dưới]; sđd., tr. 61 – 62. ----
++ Tôn Thất Thuyết bị tước “Tôn Thất”, đổi theo họ mẹ, thành Lê Thuyết.
(sđd., tr. 56 – 57).
++ “Đại Nam thực lục chính biên đệ tứ kỉ” , trước đây, biên soạn còn sơ lược, nay đều bỏ hết (mặc dù mới làm theo thể thức sách Đông Hoa, Tự Đức có xem qua, và cũng mới khởi làm thực lục vào tháng giêng âl., Ất dậu [1885]).
(sđd., tr. 57).
Thật ra, về sau, đến thời Thành Thái, toàn bộ kỉ đệ tứ đã được biên soạn lại.
+++ Tháng mười âl..
++ Pháp và quân tỉnh Quảng Trị đánh quân Cần vương sở tại. Đó là nghĩa binh do Trương Đình Hội, Trần Quang Chuyên, Hoàng Hoãn, Nguyễn Tự Như tổ chức, chỉ huy.
(sđd., tr. 60).
++ Khai phục: có mức độ cho Miên Trinh (Tuy Lý vương), Miên Triệu, Miên Tranh (Tằng), Hồng Đãn (Đĩnh); và khai phục theo hàm chức cũ: Hồng Tu, Ưng Phương (*)… Vẫn kết án nguyên tội danh Hồng Hưu (câu kết với thực dân Pháp qua khâm sứ Lê Na [Rheinart], tiết lộ quân quốc trọng sự, âm mưu tiếm đoạt ngai vàng) và vụ Hồng Hưu – Đồng Xuân (loạn luân có quả tang). Đồng Xuân (Gia Đốc) được đổi tên là Phục Lễ (phải chịu tuân theo lễ giáo). Tất cả các vụ trên, được cho là đến nay, thời thế chính trị đã khác trước, nên gia ân châm chước về tước và lương bổng (dành cho hoàng thân).
(sđd., tr. 61 – 62).
(xem lại: tập 36, sđd., tr. 176 – 178).
---- (*) Ưng Phương (cháu nội Tuy Lý vương Miên Trinh), đã đỗ cử nhân, về sau làm ở Quốc sử quán, là một trong khoảng 50 viên chức biên soạn ĐNTL.CB. đệ tứ kỉ. Xem danh sách sử quan Quốc sử quán thời đoạn biên soạn phần sử ấy: tập 27, sđd., tr. 28. Qua đó, hậu thế có thể thấy tinh thần “sử học bất vị thân” và cơ chế làm việc tập thể của Quốc sử quán triều Nguyễn. ----
++ Tịch biên 12 mẫu ruộng tư của Nguyễn Văn Tường tại xã Triều Sơn (Thừa Thiên).
(sđd., tr. 63).
++ Nguyễn Xuân Ôn (đốc học), Lê Quang Nhạ (Sơn phòng sứ) ở Nghệ An khởi nghĩa.
(sđd., tr. 67).
++ Ngụy vương Đồng Khánh ra dụ khuyên sĩ dân thôi cần vương, xướng nghĩa chống Pháp. Trong bản dụ, có những từ ngữ cho rằng Tôn Thất Thuyết đã “cổ động, mê hoặc sĩ dân”, “khôi phục”…
(sđd., tr. 67 – 69).
++ Đồng Khánh ra dụ cho sĩ dân Bắc Kỳ: lên án “giặc Thuyết” (*) (nguyên văn)
(sđd., tr. 69 – 72).
(xem thêm: sđd., tr. 75 – 76).
---- (*) Tôn Thất Thuyết. ----
++ Chế hiệu cờ “bảo hộ”: cờ vàng, ở góc phía trên sát cán cờ có một lá cờ “tam tài” nhỏ (chiếm 1/4 diện tích của toàn lá).
(sđd., tr. 75).
Ngụy triều Đồng Khánh công khai thừa nhận “bảo hộ”!
++ Quân Pháp đến Sơn phòng Hà Tĩnh. Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi về lại thượng du Quảng Bình. Tháng 9 âl., Ất dậu (1885) vừa qua, khi còn ở Hà Tĩnh, Hàm Nghi đã ban chiếu chỉ triệu mời thân hào Hà Tĩnh và bố trí quan chức (*). Đến nay, sau khi lưu vua ở đồn Ve (Quảng Bình), Tôn Thất Thuyết cùng Trần Xuân Soạn đã sang Trung Hoa cầu viện (mặc dù hai ông thừa biết Pháp, Hoa đã kí kết hiệp ước Thiên Tân 1885!).
(sđd., tr. 75 – 76).
(xem lại: sđd., tr. 69 – 72).
---- (*) Xin lưu ý: Đây thật sự là chiếu chỉ, chứ không phải sắc dụ. Tinh thần chiếu chỉ này, theo sự lược chép trong ĐNTL.CB., sđd. số tr. đd., có nội dung là chọn Sơn phòng Hà Tĩnh làm kinh đô kháng chiến và sự triệu tập, phân công, trao chức cho các thân hào, sĩ phu. Chiếu chỉ có tính chất long trọng, phù hợp với nội dung trên. Tuy thế, lâu nay, trong nhiều cuốn sách được viết về sau, các tác giả cứ căn cứ vào bản thường được gọi là “Hàm Nghi đế chiếu” hay “Chiếu Cần vương [số 2]” trong sách của Gosselin (“L’Empire d’Annam”), để đồng nhất với chiếu chỉ này. Thật ra, theo nội dung lược chép nói trên, giữa văn bản Gosselin in làm phụ lục và chiếu chỉ này không có điểm nào giống nhau, và ngay ngày tháng trên hai văn bản chiếu chỉ cũng sai khác (bản Gosselin: 11-8 âl., Ất dậu [1885]; chiếu chỉ này lại được công bố vào tháng 9 âl., Ất dậu [1885]). Thêm một lẽ quan trọng khác nữa, trong quãng thời gian từ khi Đồng Khánh lên ngôi đến thời điểm này (tháng 10 âl., Ất dậu [1885]), lúc Tôn Thất Thuyết đã sang Trung Hoa, ĐNTL.CB. không ghi nhận một bản chiếu chỉ nào có nội dung như trong sách Gosselin, cho dù ghi nhận gián tiếp (qua sự “phê phán phản hồi” của Đồng Khánh chẳng hạn). Đó là những luận cứ, người biên soạn (TXA.) mạn phép bổ cứu vào bài viết của nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc (Kỉ yếu HNKHLS., ĐHSP. TP.HCM., 20-6-1996, tr. 25 – 30; và đã đăng lại trên tạp chí Xưa & Nay, số 126, tháng 11-2002, tr. 9 – 11). (Xem thêm: tháng hai âl., Bính tuất (1886); sđd., tr. 132 – 141). ----
+++ Tháng mười một âl..
++ Pháp đánh chiếm Sơn phòng Quảng Nam. Trần Văn Dư bi giết chết.
(sđd., tr. 78 – 79; tr. 93 – 94).
Trần Văn Dư (Trần Dư), người Tam Kỳ, Quảng Nam; vốn là thầy dạy học của Ưng Kỹ (Đồng Khánh). Trong thời điểm này, ông tỏ ra phân vân, thiếu quả quyết, nhưng vẫn bất khuất.
++ Thủ lĩnh Đào Doãn Địch ở Bình Định ốm, chết vào tháng 8 âl., Ất dậu (1885). Nay các nghĩa sĩ Cần vương vẫn còn nổi dậy.
(sđd., tr. 79).
++ Khác với Nguyễn Thân, kẻ đã hoàn toàn “quay giáo, trở cờ” theo giặc Pháp và ngụy vương Đồng Khánh, Đinh Hội đã theo phe Cần vương, sau khi “bị” phe Cần vương “bắt”. Đến nay, đồn Lão Thuộc đã thuộc về nghĩa binh.
(sđd., tr. 67, 80 – 81).
+++ Tháng mười hai âl..
++ Lại bùng lên phong trào Cần vương tại Quảng Nam. Du kẻ “tội” (!!!) Trần [Văn] Dư của Đồng Khánh.
(sđd., tr. 93 – 94).
++ Nguyễn Trọng Hợp (quyền kinh lược sứ Bắc Kỳ) dâng sớ xin khen thưởng (!!!) các xã ở Hải Dương, Hưng Yên đã chống lại quân Cần vương.
(sđd., tr. 99).

43) Đồng Khánh năm thứ 1, Bính tuất (1886): 63 tuổi
+++ Tháng giêng âl..
++ Quân Cần vương Quảng Ngãi – Bình Định (Nguyễn Bá Loan (*), Bùi Điền, Đặng Đề) bị tên Nguyễn Thân đánh bại.
(ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 103 – 104).
---- (*) Con trai của nhân vật chủ “hòa” Nguyễn Bá Nghi. ----
++ Tín đồ Thiên Chúa giáo ở Quỳnh Lưu (tỉnh Nghệ An) đốt phá huyện lị và các xã Quỳnh Đôi, Bào Hậu.
(sđd., tr. 105).
++ Hách Tô (Hector) thay Ba Duy Đam (Proudhomme).
(sđd., tr. 105).
++ Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thiện Thuật sung làm chánh, phó toàn quyền đưa bản “hòa” ước về mỏ, trao đổi với Hách Tô (Hector) tại Sứ quán, và cũng trao đổi (hỗ giao) “hòa” ước Giáp thân 1884 (*).
(sđd., tr. 105 – 107).
---- (*) Đến lúc này, “hòa” ước Giáp thân 1884 (Patenôtre – Phạm Thận Duật) mới bắt đầu thực sự có hiệu lực. Nhưng tình thế đã hoàn toàn khác trước! ----
++ Đồng Khánh muốn tấn tôn mẹ nuôi là Thiện phi Nguyễn Đình thị (là con gái Nguyễn Đình Tân) làm hoàng thái phi. Từ Dũ đồng ý, giao cho đình thần bàn. Đình thần cho rằng phong như đã phong Học phi là sai. Thiện phi cũng không được phong!
(sđd., tr. 108 – 109).
Thật ra, đình thần ngụy triều Đồng Khánh quá hẹp hòi, xét theo quan điểm lịch sử – cụ thể. Dưới triều Nguyễn, ngay cả ông bà, bố mẹ, vợ con của quan to cũng được phong hàm tước (danh dự). Vả lại, 1883, lúc phong hoàng thái phi cho mẹ ruột Hiệp Hòa (Hồng Dật), triều thần cũng đã nghiên cứu các trường hợp tương tự trong sử sách.
Cũng xin lưu ý: Vì Nguyễn Đình Tân (thân sinh Thiện phi) vốn là người “sát tả” nổi tiếng hồi ông làm quan ở Nam Định.
(xem lại: ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 216 – 217, 220).

++ Tịch biên 18 mẫu ruộng tư của Nguyễn Văn Tường ở thôn Thanh Đàm (Thừa Thiên).
(tập 37, sđd., tr. 109).
++ Đồng Khánh lấy con gái của Nguyễn Hữu Độ làm vợ, tấn phong hoàng quý phi (!).
(sđd., tr. 110 – 112).
Hoàng quý phi là bậc cao nhất! Dưới triều Nguyễn, không có lệ lập hoàng hậu cho vị vua còn sống (“tam bất lập”). Trường hợp Bảo Đại về sau, phong hoàng hậu cho Nam Phương (Ma Ri Ét Giăng Nơ [Mariette Jeane] Nguyễn Hữu Thị Lan, tín đồ Thiên Chúa giáo) là ngoại lệ.
+++ Tháng hai âl..
++ Tuần phủ Quảng Trị Cao Hữu Sung đi khắp hạt hiểu thị, quyên góp để giúp dân Thiên Chúa giáo bị đốt phá… Linh mục Quảng Bình, Hà Tĩnh bức bách quan tỉnh, dân làng, lại còn cướp thuyền bè, dỡ đình chùa…
(sđd., tr. 124 – 125).
++ Nhân dân Thanh Hóa đánh Pháp bằng chiến thuật du kích (giấu dao, kiếm trong đòn gánh…).
(sđd., tr. 126).
++ Nha thự phủ Triệu Phong (Quảng Trị) được dời về làm tại xã Cổ Thành, bởi dinh thự cũ đã bị quân (…?) nổi dậy (*) đốt phá.
(sđd., tr. 130).
---- (*) Có những cuộc “đốt phá” không được ĐNTL.CB. ghi rõ là quân thuộc lực lượng nào. Đó là tín đồ Thiên Chúa giáo phục thù, cướp chính quyền? Quân Cần vương đánh Pháp và ngụy? ----

XXV. THỜI ĐÃ BỊ LƯU ĐÀY BIỆT XỨ SANG TA I TI (TAHITI) NHƯNG ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT HUẦN THẦN TRUNG NGHĨA VẪN CÒN ÂM VANG TRONG PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

++ Lãnh phủ doãn Thừa Thiên Phan Liêm và tham tá Các vụ Phạm Phú Lâm, sung làm khâm sai, cùng Hải phòng phó sứ Quảng Nam Nguyễn Tạ, sung làm tán lí, đi từ Quảng Nam vào các tỉnh phía nam (cắm cờ tiết, được Pháp cấp quân lính, lương tiền) để ban dụ và cáo thị của Đồng Khánh. Dụ và cáo thị này do Cơ mật viện ngụy triều, khâm sứ thực dân Hách Tô (Hector) cùng các khâm sai kể trên viết; Đồng Khánh sửa lại; ấn quán của Quốc sử quán in ra 100 bản cho mỗi thứ:
~~ 1. Dụ:
Với bản dụ này, bọn thực dân và tay sai đã quy tất cả cho Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết với giọng điệu chống người yêu nước chân chính – những người đã đấu tranh với thực dân Pháp, vì độc lập của đất nước và vì chủ quyền của triều Nguyễn (chỉ kể từ 1883 đến 1885; Đồng Khánh cũng chỉ nhấn mạnh giai đoạn đó). Những kẻ viết bản dụ còn phân tích: sự thể lương – giáo tàn sát nhau diễn ra cũng chỉ vì hiểu lầm là do Pháp gây nên, kể cả nguyên nhân xảy ra cuộc kinh đô quật khởi và bị thất thủ. Đó là cách phân tích ngược ngạo, nhằm biện minh cho thực dân Pháp. Qua cách phân tích đó, bản dụ còn thể hiện sự khẳng định ngược ngạo không kém, rằng nguyên nhân đều do Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết (xem lại: tập 36, sđd., cuối tr. 224). Đồng thời, bản dụ cũng không quên nịnh hót Pháp…
~~ 2. Cáo thị:
Qua bản cáo thị, bọn thực dân và tay sai đã phân tích chữ “thời”, chữ “nghĩa” theo giọng điệu xâm lược và nô lệ bù nhìn, nịnh hót thực dân Pháp, lên án Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết không theo di chiếu của Tự Đức, lại gây ra chiến tranh với Pháp, chiến tranh Hoa – Pháp, và cả cuộc kinh đô quật khởi; khuyên sĩ dân đừng trung thành với Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường như nhân dân các tỉnh hữu kì (Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An…), như các thủ lĩnh Cần vương (Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Đức Đạt…). Nói chung, bản cáo thị, ngoài việc thể hiện sự lên án Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, còn lại là những lời lẽ chủ bại, thể hiện sự đầu hàng ngoan ngoãn trước sức mạnh của thực dân Pháp, ca ngợi sự “rộng lượng” (!!!) của bọn Pháp cướp nước, bóc lột nhân dân, để minh họa cho chữ “thời”, chữ “nghĩa” hèn hạ và nhục nhã của ngụy triều Đồng Khánh!
(sđd., tr. 132 – 141).
(Hai khâm sai này: Phan [Thanh] Liêm là con trai Phan Thanh Giản [?] và Phạm Phú Lâm là cháu của Phạm Phú Thứ).
Tóm lại, qua bản dụ và bản cáo thị trên, với cách nhìn trên lập trường dân tộc, chống Pháp, sẽ thấy rõ Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết có uy tín rất lớn và rất sâu rộng trong sĩ dân phong trào Cần vương.
Và sự thật lịch sử đó đã phủ định rằng: không từng có cái gọi là “Dụ Cần vương số 2” bao giờ!
Bản dụ và bản cáo thị ấy, vô hình trung, ngoài ý định của Hách Tô (Hector), Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm, Phạm Phú Lâm và cả Đồng Khánh, đã làm sáng tỏ sự thật lịch sử cụ thể này: Trong hai tháng sau đêm kinh đô quật khởi (hay còn gọi là “cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 [âl.]” (04 – 05-7-1885), Nguyễn Văn Tường vẫn phối hợp chặt chẽ trong bí mật với phong trào Cần vương, chống thực dân Pháp và tay sai của Pháp là bọn Việt gian, gián điệp, tiêu biểu như Nguyễn Hữu Độ, linh mục Trần Lục…

+++ Tháng ba âl..
++ Linh mục Trần Lục (tỉnh Ninh Bình): gia hàm tham tri Bộ Lễ, sung làm tuyên phủ sứ Thanh Hóa. Đó là do lời tâu xin của Nguyễn Hữu Độ.
(sđd., tr. 143).
++ Phong trào Cần vương ở Quảng Nam vẫn tiếp tục nổi dậy (hoặc giáo dân vẫn tấn công, đốt phá tỉnh thành?).
(sđd., tr. 144).
++ Tổng lãnh sự Pháp là Đinh Long (Địch Long, Dillon) đến thay Hách Tô (Hector). Hách Tô (Hector) thôi chức khâm sứ nhưng vẫn ở lại Huế.
(sđd., tr. 145).
++ Nguyễn Trọng Hợp (tên tay sai đứng đầu Nha Kinh lược Bắc Kỳ) tâu báo về tình hình trong địa bàn. Quân của Nha Kinh lược phối hợp với quân Pháp đánh diệt phong trào Cần vương (!!!) và giặc Khách.
(sđd., tr. 145 – 146).
++ Pôn Be (Paul Bert): toàn quyền đại thần Pháp. Trương Vĩnh Ký (Pétrus Ký) đi cùng y đến Huế. Cả hai đều được ngụy triều Đồng Khánh phong tước.
(sđd., tr. 147 – 148).
Quá trình làm tay sai lâu dài và bản chất bán nước của Trương Vĩnh Ký thật là đáng sợ, cho dù Trương Vĩnh Ký là một học giả có thiên tài về ngoại ngữ!
+++ Tháng tư âl..
++ Tuần phủ Hà Tĩnh Vũ Khoa xin xét lại ý kiến lấy giáo dân để đánh dẹp nghĩa binh Cần vương.
(sđd., tr. 157).
++ Phong trào Cần vương Quảng Nam rước bài vị ở Văn Miếu tỉnh lên thờ ở thôn Trung Lộc, huyện Quế Sơn.
(sđd., tr. 158).
++ Đồng Khánh đi kinh lí ra Quảng Trị và các tỉnh phía bắc.
(sđd., tr. 162 – 164).
+++ Tháng năm âl..
++ Trương Vĩnh Ký (Pétrus Ký), Nguyễn trọng Tạo sung làm tham tá Viện Cơ mật.
(sđd., tr. 168).
++ Số vàng bạc Tôn Thất Thuyết cho chuyển đến Sơn phòng Quảng Nam (trước đây, Vũ Trọng Bình chuyển vào đó), và ở các Sơn phòng Quảng Trị, Quảng Bình, đều bị Pháp tịch thu. Nay Pháp trả cho ngụy triều Đồng Khánh một nửa, còn một nửa Pháp bảo sẽ cho đúc thành tiền và để chi phí cho các việc quân sự, hành chính…
(sđd., tr. 171 – 172).
+++ Tháng sáu âl..
++ Đồng Khánh lại ra dụ, niêm yết khắp các tỉnh bắc Trung Kỳ, lên án Tôn Thất Thuyết, Hàm Nghi và hiểu dụ sĩ dân, đồng thời nhắc lại việc Từ Dũ treo giải cho ai bắt được Hàm Nghi.
(sđd., tr. 174 – 175).
Xin lưu ý: Lúc này, bản dụ của Đồng Khánh không còn nhắc đến Nguyễn Văn Tường nữa, bởi đây là bản dụ niêm yết trước hết ở Quảng Trị, quê hương của Nguyễn Văn Tường, nơi hồi tháng bảy âl., Ất dậu (1885) đã bùng lên một cuộc khởi nghĩa dữ dội vào ngày Nguyễn Văn Tường bị lưu đày.
++ Nguyễn Hữu Độ và quân thực dân Pháp tiến đánh các vùng miền núi Quảng Trị, nơi có các đồn trại do quân Cần vương thiết lập: đồn Khe Cây Giang, đồn Khe Chữ, đồn Bến Ma. Đồng Khánh cùng đi để thị sát, phủ dụ.
(sđd., tr. 176 – 177).
++ Xây dựng Nha Kinh lược Bắc Kỳ ở trường thi Hà Nội.
(sđd., tr. 177).
Đây là thủ đoạn của Pháp để chúng hoàn toàn thống trị Bắc Kỳ, điều mà Nguyễn Văn Tường phản đối quyết liệt. Ông phản đối thành lập Nha này, phản đối bổ nhiệm Nguyễn Hữu Độ làm ở đấy, nhưng cuối cùng phải nhân nhượng lệnh dụ Từ Dũ, sau ngày 23-5 âl., Ất dậu (1885) .
++ Pôn Be (Paul Bert) tuyên bố hủy bỏ bản phụ ước 6 điểm, kí kết vào tháng 7 âl., Ất dậu (1885), giữa triều đình Đại Nam và Cô Ra Xi (De Courcy).
(sđd., tr. 177).
Đó là bản phụ ước của “hòa” ước 1884, Pháp cố quyết ép buộc Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và triều đình Đại Nam, gây nên “cuộc nghĩa cử đêm 22-5 [âl.]…”. Sự hủy bỏ phụ ước ấy của Pôn be (Paul Bert) là nhằm xoa dịu tình hình vẫn đang sôi dậy phong trào quật khởi Cần vương.
++ Viện Cơ mật do thực dân Pháp và tên tay sai Nguyễn Hữu Độ khuynh loát đưa ra kế họach sáu tháng, gồm 4 điểm (4 biện pháp) để trấn dẹp phong trào Cần vương ở Quảng Trị. Sau đó, đoàn hộ giá Đồng Khánh tiếp tục ra Quảng Bình.
(sđd., tr. 178 – 180, 186, 192 – 193).
Đi đến đâu, Đồng Khánh cũng bị sĩ dân khinh bỉ, oán ghét, nên phải bỏ dở lộ trình, quay vào Huế (theo nhiều tư liệu, chủ yếu là từ cuốn sách của Gosselin).
++ Nguyễn Văn Tường bị lưu đày đến quần đảo Ta I Ti (Tahiti) vào cuối năm Ất dậu (12-1885), trên chiếc tàu thủy Xơ Cóp (Scorft) với Tôn Thất Đính (Phạm Thận Duật bị ốm, đã chết; xác bị buông xuống biển tại eo biển Hạ Châu [Malacca]). Ngày 29 tháng 6 âl., Bính tuất (30-7-1886), Nguyễn Văn Tường mất tại làng Pa Pơ Ét (Papeete) thuộc Ta I Ti (Tahiti). Hai tháng hai mươi ngày sau (20-10-1886), chính phủ Pháp ra quyết định khai quật phần mộ (hầm nổi) và chuyển di thể Nguyễn Văn Tường về Đại Nam. Tôn Thất Đính được phóng thích để đưa linh cữu bạn tù đồng thời là đồng chí chủ chiến của con trai mình (Tôn Thất Thuyết) về nước. Và ông cùng gia đình Nguyễn Văn Tường đã tổ chức chôn cất, vào khoảng tháng giêng âl., năm Đồng Khánh thứ 1, Bính tuất (1886), tại An Cư (nay thuộc xã Triệu Phước), Đăng Xương (Triệu Phong), Quảng Trị, quê hương của Nguyễn Văn Tường. Cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, Nguyễn Văn Tường vẫn kiên định tinh thần chống thực dân Pháp (*).
(sđd., tr. 248)
(xem thêm: các tư liệu khác: Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn, “Quốc triều hương khoa lục” , bản dịch, Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 297; Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam” , Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 482 – 483).
---- (*) Người biên soạn (Trần Xuân An) tổng hợp, sau khi đối chiếu các nguồn tư liệu, về cái chết của Nguyễn Văn Tường. Quốc sử quán triều Nguyễn không đề cập đến cái chết và việc di táng di thể của Nguyễn Văn Tường, trong “Đại Nam thực lục, chính biên”, có lẽ do những quy định, biệt lệ nào đó khi chép vào sử kí về cái chết, đặc biệt là ngày chết của các nhân vật lịch sử nói chung (ngay cả việc dùng từ cũng vậy, đều có quy định cho từng thứ bậc: băng, hoăng, tốt, tử; và trường hợp không chép…) (?). Chỉ trong “Quốc triều hương khoa lục”, Cao Xuân Dục và Quốc sử quán mới viết về cái chết của Nguyễn Văn Tường ở quần đảo giữa Thái Bình dương, chếch về phía Trung – Nam Mỹ, với câu: “Sau sự biến năm Ất dậu (1885), chết ở bên Tây” (nguyên văn) (Ta I Ti là thuộc địa của Pháp). Câu ấy đã xác định rõ thời điểm Nguyễn Văn Tường chết.

~x~ Khởi công sưu tầm, nghiên cứu tư liệu vào những tháng cuối năm 1999 (Kĩ mão), để tiến hành thực hiện đề tài ấp ủ từ lâu.
~x~ Khởi soạn ngày 20-03-2001 (26-02 âl., Tân tị HB1).
~x~ Biên soạn xong lúc 17 giờ 11 phút ngày 07-04-2001 (14-03 âl., Tân tị HB1).
~x~ Sửa chữa xong lúc 09 giờ 43 phút ngày 17-04-2001 (24-03 âl., Tân tị HB1).


TP. HCM., 1999 – 2001.
TRẦN XUÂN AN

________________________

PHỤ LỤC
TRÍCH ĐOẠN NGUYÊN VĂN
“ĐẠI NAM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN”
Bản dịch Viện Sử học
(nguyên là phụ lục thuộc cuốn khảo luận của Trần Xuân An:
Nguyễn Văn Tường [1824 – 1886], ‘những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được’”
đã được đăng tải trên Tạp chí điện tử Giao Điểm, số tháng 5-2005:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_nvt_phulucII.htm



53. Trích phàm lệ của kỉ đệ lục: VIẾT SỬ THEO TIÊU CHÍ NGƯỢC:

“Phàm lệ phụ biên ở kỷ đệ ngũ, trong đó có một điều chép rõ: từ ngày 23 tháng 5 năm Hàm Nghi nguyên niên, sau khi kinh thành có việc, đến ngày 10 tháng 8 trở về trước, xe vua dời đi, trong, ngoài không hệ thuộc được, và tự ngày 10 tháng ấy trở về sau đến cuối tháng 9, Cảnh tông Thuần hoàng đế [vua ngụy Đồng Khánh – TXA. ct.] ta tuy đã nối ngôi, nhưng tuyên bố dụ bảo, sợ chưa biết được khắp, niên hiệu vẫn còn chép là Hàm Nghi; về việc Nam – Bắc có vâng theo dụ của vua Hàm Nghi, mà khởi việc cần vương thì đều hãy chép làm “khởi binh”, để có cớ mà nói. Còn tự mồng 1 tháng 10 năm Đồng Khánh Ất dậu trở về sau, ngôi lớn định đã lâu, dụ bảo chắc đã biết khắp cả, mà còn làm liều, thì ở kỷ đệ lục kỷ sẽ lại chép là nghịch; đã được chuẩn cho lục ra để chép vào.
Nay hai tháng 8 và 9 năm Hàm Nghi nguyên niên [tức là tháng 8 và tháng 9 âm lịch, năm Ất dậu (1885) – TXA. ct.], là còn thuộc vào phận tháng của kỷ ấy, cũng vẫn theo thế chép là khởi binh; còn từ mồng 1 tháng 10, là năm Đồng Khánh Ất dậu trở về sau, thì mới chép là nghịch”.

(ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”,
tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 15 – 16).



54. Quốc thư gửi Chính phủ Pháp của ngụy triều Đồng Khánh, tháng 8 Ất dậu (tháng 9.1885):

“… Quyền thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết […].Ngày 23 tháng 5 năm nay, kinh thành thất thủ, xe tiên đế dời đi, hai người ấy thực là căn nguyên của tai vạ […]”.

(ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”,
tập 37, Nxb. KHXH., 1977, tr. 33).



55. Bản án chung thẩm của ngụy triều Đồng Khánh (có chữ kí của De Courcy) về Nguyễn Văn Tường và 3 thành viên khác của nhóm chủ chiến Triều đình Huế, tháng 8 Ất dậu (tháng 9.1885):

“Tôn nhân phủ và đình thần dâng sớ tâu bày tội trạng của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, xin tước hết quan tước và tịch thu gia sản; tham tri Trương Văn Đễ đã quá cố, và chưởng vệ Trần Xuân Soạn, đều là bè đảng làm loạn, cũng tước cả quan chức. Trong bọn ấy, thì Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, xin do quan địa phương xét bắt bằng được và chém ngay, để tỏ rõ hiến pháp trong nước. Vua nghe theo”.

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,
1977, tr. 35).



56. Dụ của Đồng Khánh (do khâm sứ thực dân Hector, Nguyễn Hữu Độ hợp soạn, Đồng Khánh chỉ sửa chữa lại), niêm yết khắp các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, tháng 02 Bính tuất (tháng 3.1886):

“… Duy trẫm tin là các sĩ phu, thực tình là nhận nhầm, chứ không có lòng làm loạn; Triều đình đã đem đầu mối họa loạn, là tự Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết gây ra, nói rõ ràng với quan Đại Pháp, đã tin không ngờ, để cho Triều đình ta phải xử trí ngay, cho lương, giáo đều được yên ổn …”.

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,
1977, tr. 134).



57. Cáo thị của ngụy triều Đồng Khánh (do hai khâm sai Phan Liêm, Phạm Phú Lâm hợp soạn, Đồng Khánh tự sửa định), niêm yết khắp các tỉnh từ Quảng Nam trở vào, tháng 02 Bính tuất (tháng 3.1886):

“… Nay Lê Thuyết [Tôn Thất Thuyết – TXA. ct.], trốn tránh ở rừng gập ghềnh, một thân tuy nhỏ, mà coi đất trời như còn hẹp; Nguyễn Văn Tường thì đã bị đi đày; tức là trời trừ kẻ tật ác; huống chi tai ách 10 đời, [mà Quang Vũ trung hưng – VSH. ct.]; con của Tấn công có 9 người, [mà còn được Tùng Nhĩ – VSH. ct.]; xem ý trời cũng có thể biết. Trẫm cùng bọn ngươi, phải nên hết sức lo toan khôi phục lại, để lại thấy được cảnh tượng thái bình như xưa. Không ngờ bọn ngươi [tức là các sĩ phu, nhân dân – TXA. ct.] theo ý làm liều, hoặc bức đuổi quan tỉnh, hoặc đốt phá phủ, huyện, kháng cự mệnh lệnh Triều đình, cam tâm hết lòng trung với kẻ thù [tức là Hàm Nghi, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, nhưng theo mạch văn, thì chỉ nhắm đến hai phụ chính – TXA. ct.], từ Hải Vân trở vào nam, không chỗ nào là không loạn [khởi nghĩa – TXA. ct.], rất đáng quái lạ; sao không xem châu Hoan, châu Diễn, Quảng Bình, Quảng Trị (*), mượn tiếng là xướng nghĩa, cần vương, đều đem thân bón cho đồng cỏ, mười nhà thì chín nhà hết sạch; còn những kẻ lọt lưới, thì bị mưa độc, khí núi, liền hóa làm giống sâu ở cát, tức như tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn là thủ xướng, phải giải quân trốn xa, thám hoa Nguyễn Đức Đạt phải đến tỉnh đầu thú; đã thấy được đại khái …”.

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,
1977, tr. 138 – 139).

(*) Xem Jabouille, bài “Một trang viết về lịch sử tỉnh Quảng Trị: tháng 9.1885”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1923), bản dịch, tập X, Nxb. Thuận Hoá, 2002, tr. 434, 439… Xin đối chiếu với ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 26 – 27, tr. 39 – 40, tr. 54, tr. 60, tr. 124 – 125, tr. 130, tr. 162 – 164, tr. 176 – 177, tr. 178 – 180, tr. 186, tr. 192 – 193.



58. Theo lệnh Pháp, ngụy triều Đồng Khánh và Nguyễn Hữu Độ, cùng với Phan Liêm, Phạm Phú Lâm tuyên truyền bôi nhọ nhằm triệt hạ uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến, để dập tắt phong trào Cần vương, nên đã bị sĩ phu, nhân dân phản ứng, tháng 11 Bính tuất (tháng 12.1886):

“Phó khâm sai Tả trực kỳ là Phạm Phú Lâm chịu tội.
Phú Lâm đến Đà Nẵng, được 10 ngày dâng tập tâu: “Bọn giặc [quân Cần vương, ngụy triều Đồng Khánh gọi là “giặc”!!! – TXA. ct.] đưa giấy bắt họ thân và bắt được vợ y, làm đủ hình ác; xin tự trói về kinh đợi tội”; lại lục tư cho Viện Cơ mật, nói: “Giặc hiện bắt xã thôn ấy chỉ dẫn phần mộ tổ tiên của y, nếu để chậm, tất đến mắc vạ; bèn không đợi chỉ, lập tức đáp thuyền về kinh, đến Viện Cơ mật, xin đến Bộ Hình đợi tọâi” (*).
Tập tâu ấy, Viện thần hiện đương nghĩ biên phiếu tâu lên hặc tội, nói: “Phú Lâm không đợi chỉ chuẩn cho, dám tự tiện về, đi lại ở thành thị, không lo sợ chút nào, coi pháp lệnh Triều đình như trò trẻ con, sau này, người khác trông thế bắt chước, thì thành sự thể gì. Xin trước hết giải chức, xích lại giao cho Bộ Hình nghiêm nghĩ, để chỉnh đốn phép làm tôi”.
Vua chuẩn y lời tâu. Sau Bộ nghĩ, xin xử tội 100 trượng, cách chức, không được bổ dụng. Vua cho nghĩ xử ấy là nhẹ, bác đi, giao cho Các thần giữ mực công bằng nghị xử lại. Các thần phúc tâu, nói: “Xin chiểu điều luật “lầm lỡ việc quân” xử tội “trảm giam hậu””.
Vua lại nghĩ đến chú ruột y là Phạm Phú Thứ là cựu thần của tiên triều, vốn có trọng vọng, đáng nên ban ân cho con cháu; mới chuẩn cho cách chức, phát giao đi sai phái làm việc ở đạo Hữu trực kỳ”.

(ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH.,
1977, tr. 222).

(*) Biện pháp tàn ác gần như tru di tam tộc, tam đại (giết cả người chết, bằng cách quật mồ, băm xương) này, thực ra khởi đầu là do bọn tay sai đắc lực của Pháp khởi xướng, theo lệnh của Pháp, để đàn áp, dập tắt phong trào khởi nghĩa Cần vương. Đó là bọn Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân. Bọn quan tỉnh, thực chất đã là tay sai của thực dân, cũng thực thi biện pháp ấy.
ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 197 ghi rõ: “Vua [bù nhìn Đồng Khánh – TXA. ct.] sai bọn khâm sai Phan Liêm tiến đi, (mang theo 300 lính tập và 100 binh giản). Phạm Phú Lâm vì mẹ ốm và tình trạng giặc [quân Cần vương – TXA. ct.] hoành hành, quấy nhiễu (quan viên hạt tỉnh ấy dự bàn đánh dẹp, đốt nhà, bắt thân nhân, và đào phá phần mộ của giặc), xin thôi chức phó khâm sai. Vua y cho”.
Chúng tôi phải chú thích thêm để thấy rằng, quân Cần vương cũng ở trong cái thế phải dùng “độc trị độc”. Trong trường hợp này, không thể trách quân Cần vương được!
Biện pháp dã man thời Trung cổ ấy, xin được hiểu với cái nhìn lịch sử – cụ thể và phải cần phê phán mạnh mẽ theo quan điểm luật pháp văn minh, công bằng, nhân đạo. Nói rõ hơn, hồi đó sự thể nó như thế; sự thể ấy do nhiều yếu tố của thời bấy giờ chi phối, trong đó có thói tục “một người làm quan cả họ được nhờ”, “một người làm giặc cả họ phải tội”. Và nói rõ hơn, sự thể ấy khác hẳn với quan niệm hiện đại của chúng ta: “ai làm ác nấy chịu, ai có công nấy hưởng”.
Ở đây, chúng tôi liên tưởng đến một trí thức tu sĩ Thiên Chúa giáo nào đó, hiện nay, trong mươi năm gần đây, vẫn còn khoái trá một cách bệnh hoạn, hả hê một cách man rợ khi xem phim Sám hối, ca ngợi một người đàn bà thuộc chủng da trắng châu Âu đã trả thù kẻ cầm quyền độc tài bằng cách ba lần quật mồ y! Vẫn là luật Trung cổ “mắt trả mắt, răng trả răng” ư? Thật rùng rợn và đáng phẫn nộ! TXA.



59. Là chánh khâm sai trong chiến dịch bôi nhọ, triệt hạ uy tín Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến, nhằm dập tắt phong trào Cần vương, cuối cùng Phan Liêm cũng như Phạm Phú Lâm, đều thú nhận: sĩ phu, nhân dân sáng suốt, giàu lòng yêu nước, không chịu khuất phục giặc Pháp và ngụy triều Đồng Khánh, tháng 8 Đinh hợi (tháng 9 – tháng 10. 1886):

“Giáng chức viên mới chuẩn cho lãnh tổng đốc Bình Thuận, Khánh Hòa là Phan Liêm … […].
[…] … Lúc đầu Liêm đã được mệnh mới, tức thời dâng sớ nói: “Hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa, dân sau khi bị loạn, vỗ yên răn dẹp thật khó; Liêm này mình ốm, tài xoàng, sợ không kham nổi chức ấy, xin chọn bậc danh khanh tài cán, lão luyện đến nhận chức; sẽ xin vào kinh chiêm bái, về quê quán chữa bệnh, để dưỡng tuổi trời”.
[…] … Sau khi đã về tới nơi, Liêm lại nói: “Dân hạt ấy, sau khi bị bọn giặc [quân Cần vương – TXA. ct.] mê hoặc [thức tỉnh, giác ngộ – TXA. ct.], chưa chắc mười phần hết ngờ … […]”.
Vua [bù nhìn Đồng Khánh – TXA. ct.] cho Liêm đã nhiều lần từ chối, không cần ủy gượng, đổi sai Văn Phong thay thế, rồi đem Liêm giải chức, giao cho đình thần trừng trị.
Đình thần xin xử tội đánh 100 trượng, cách chức không được trình bày.
Vua lại nghĩ, Liêm đã từng làm tổng đốc, lại là đời đời làm quan, chuẩn cho giáng làm biên tu, bắt về hưu”.

(ĐNTL.CB., tập 38, Nxb. KHXH.,
1978, tr. 12 – 13).




PHỤ LỤC:
CÁC TƯ LIỆU KHÁC

60. Về năm mất của Nguyễn Văn Tường:

Nguyễn Văn Tường, người xã An Cư, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị; vì tên trùng với quốc tính, không chịu đổi, nên bị đi đày, hết hạn lại được phục hàm cử nhân; làm quan tới chức Cần Chánh điện đại học sĩ, phụ trách đại thần, tấn phong Kì Vĩ quận công. Sau sự biến năm Ất dậu (1885), chết ở bên Tây” [*].

(Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều hương khoa lục, bản dịch, Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 297).

[*] Đảo TAHITI, thuộc địa của Pháp. Xem thêm: Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 478 – 485. Chúng tôi đã có ý kiến ở bài nghiên cứu “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885” về bài báo xuyên tạc và đầy thù hận này, đồng thời vẫn tiếp nhận để sử dụng các tư liệu gốc (ở đây là văn bản hành chính) của thực dân Pháp trong bài báo ấy. TXA.



61. Giấy khai tử, thủ tục hộ tịch về sự qua đời của Nguyễn Văn Tường:

“CÔNG SỞ PHÁP TẠI CHÂU ĐẠI DƯƠNG
Đảo Tahiti
Thị chính Papeete
Số 60
Cái chết của ngài Nguyễn Văn Tường
30.7.1886

Trích sao từ sổ hộ tịch của xã Papeete (Tahiti)
năm 1886

GIẤY KHAI TỬ

Năm 1886, 30.7, 4 giờ chiều, trước mặt chúng tôi là Adolphe Marouo Poroi, là sĩ quan hộ tịch của xã Papeete, đảo Tahiti. Có đến: 1. Alphonse Bonnet, là quyền giám đốc Sở Nội vụ của các công sở Pháp tại châu lục, 57 tuổi; 2. Etienne Deheaulme, quyền chánh văn phòng của Sở Nội vụ, 26 tuổi; cả 2 người đều sống tại Papeete, đã khai với chúng tôi là sáng nay, lúc 4.h 30, ngài Nguyễn Văn Tường, cựu thủ tướng của Vương quốc An Nam, khoảng 65 tuổi, cư trú tại Papeete, không rõ tên cha mẹ, đã chết; chúng tôi lập giấy khai tử này, và đã ký tên với các nhân chứng; mọi người đều đã đọc.

Chứng nhận trích sao văn bản:

Papeete, 08.12.1922
Ký tên:
A. BONNET,
Thị trưởng
E. DEHEAULME, AM. POROT.

(Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 482 – 483).


62. Trích tin tức về sự qua đời của Nguyễn Văn Tường trên Công báo Tahiti, 05.8.1886, trang 202:

Nguyễn Văn Tường, cựu thủ tướng của Vương quốc An Nam, đến Tahiti tháng hai vừa qua trên tàu Scorff, chết tại Papeete, ngày thứ sáu, 30.7.1886, lúc 4.h 30 sáng.
Thân thể của ông được liệm trong một quan tài bốn lớp, hiện được giữ tạm trong hầm nhà xác để chở về Huế”.

(Aldophe Delveaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 481 – 482).


63. Quyết định di chuyển thi hài Nguyễn Văn Tường về Đại Nam:

“QUYẾT ĐỊNH CHO PHÉP
DI CHUYỂN THI HÀI CỦA NGÀI TƯỜNG
(Công báo của thuộc địa, 09.12.1886)

“Toàn quyền các công sở Pháp tại châu Đại Dương,
Chiếu theo văn thư của Bộ ngày 20.10.1886: chỉ định gửi về nước An Nam thi hài của ngài Tường, chết tại Papeete ngày 30.7 vừa qua,
Chiếu theo đề nghị của giám đốc Bộ Nội vụ,
Quyết định:
Cho phép di chuyển thi hài của ngài Tường, chết tại Papeete, ngày 30.7 vừa qua.
Việc di chuyển sẽ được thực hiện trong sự có mặt của ông chủ sự Y tế và ông trưởng ty Cảnh sát hành chánh có phận sự lập biên bản về việc này.

Do quyết định của toàn quyền:
Giám đốc Sở Nội vụ
A. MATHIVET.

Papeete, ngày 9.12.1886
Th. LACASCADE”.

(Aldophe Delvaux, bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH.,1923), bản dịch, sđd., tr. 482).


DANH MỤC SÁCH BÁO THAM KHẢO (*) (**)

1. BAVH. (Bulletin des amis du vieux Huế), “Những người bạn cố đô Huế”, 1914 – 1925, 11 tập và 1 tập bản dẫn, Đặng Như Tùng, Bửu Ý, Hà Xuân Liêm, Phan Xuân Sanh, Phan Xưng, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Vi, Lê Văn, Trần Thanh, Nhị Xuyên, Nguyễn Cửu Sà dịch, hiệu đính, biên soạn bổ sung bản dẫn, Nxb. Thuận Hóa, 1997 – 1998, 2001 – 2002.

2. Ban Tuyên huấn Trung ương, Vụ Huấn học, “Lịch sử thế giới”, Nxb. Sách Giáo khoa Mác – Lê-nin, 1975.

3. Bửu Kế, “Chuyện Triều Nguyễn”, Nxb. Thuận Hóa, 1990.

4. Cao Xuân Dục, “Quốc triều đăng khoa lục”, Trúc viên Lê Mạnh Liêu dịch, TT. HL. Bộ VHGD. và TN., Sài Gòn, 1962, (bản in 1974).

5. Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973; vừa được Nxb. Tôn Giáo tại Hà Nội xuất bản với bản dịch mới của Nguyên Thuận (vào tháng 02.2003), với sự thay đổi nhan đề: “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914) [!?!].

6. Cao Xuân Dục và Quốc sử quán triều Nguyễn, “Quốc triều hương khoa lục”, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm, Cao Tự Thanh dịch, hiệu đính, Nxb. TP. HCM., 1993.

7. Du Long, bài báo “Khi giáo hoàng thống hối…”, Tuổi trẻ Chủ nhật, số 11 – 2000/848, 19.3 – 25.3.2000.

8. Dương Kinh Quốc, “Việt Nam, những sự kiện lịch sử, 1858 – 1896”, tập 1, Nxb. KHXH., 1981.

9. Hoàng Tiến, “Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết thế kỉ 20”, Nxb. Thanh Niên, 2003.

10. Khoa Sử Trường Cao đẳng Sư phạm TP. HCM., “Kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử về “Nhóm chủ chiến Triều đình Huế cuối thế kỉ XIX””, 11.1991.

11. Khoa Sử Trường Đại học Sư phạm TP. HCM., “Kỉ yếu Hội nghị Khoa học lịch sử về “Nhóm chủ chiến Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường””, 20.6.1996.

12. Lam Giang, Võ Ngọc Nhã (sưu tầm), “Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc”, giới thiệu nguyên văn 2 hai sử ca: “Dậu Tuất niên gian phong hỏa ký sự” và “Đại loạn năm Ất dậu”, Sài Gòn, 1971.

13. Lê Quang Thái, “Thử nhận định lại nhân vật Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)”, tạp chí Cửa Việt số 13, tháng 4.1992.

14. Lương An (sưu tầm, chỉnh lí, giới thiệu, chú thích), “Vè chống Pháp”, gồm vè “Thất thủ Thuận An” và vè “Thất thủ kinh đô”, Nxb. Thuận Hóa, 1993.

15. Nhiều tác giả, “Đại cương lịch sử Việt Nam”, toàn tập, Nxb. Giáo Dục, 2001.

16. Nhiều tác giả, “Từ điển văn học”, 2 tập, Nxb. KHXH., 1983 – 1984.

17. Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Q. Thắng, “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”, Nxb. Văn Hóa tái bản lần thứ 5, 1999.

18. Nguyễn Q. Thắng, “Trần Văn Dư với phong trào Nghĩa hội”, Nxb. VHTT., 2001.

19. Nguyễn Đắc Xuân, “Hương giang cố sự”, Tủ sách Sông Hương xb., 1987.

20. Nguyễn Đắc Xuân, “Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành”, Nxb. Thuận Hoá, 1992.

21. Nguyễn Nhược Thị Bích, “Hạnh Thục ca”, Trần Trọng Kim sưu tầm, phiên âm, Nxb. Tân Việt, 1950 (?).

22. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh, “Góp phần tìm hiểu một số vấn đề về Triều đình Huế giai đoạn 1883 – 1885 qua tác phẩm Hạnh Thục ca của Nguyễn Nhược Thị Bích”, luận văn tốt nghiệp, khoá 1996 – 2000, Khoa Sử ĐHSP. TP. HCM., tháng 5. 2000.

23 Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, Nxb. Mũi Cà Mau, 1994.

24. Nguyễn Văn Hồng, Vũ Dương Ninh, Võ Mai Bạch Tuyết, “Lịch sử cận đại thế giới”, 3 tập, Nxb. ĐH. và TTCN., 1985 – 1987.

25. Nguyễn Văn Kiệm (Viện Nghiên cứu tôn giáo), “Sự du nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam, từ thế kỷ XVII đến thế kỉ XIX”, Hội KHLS. VN., TT. UNESSCO. Bảo tồn và phát triển VHDT. Việt Nam, 2001.

26. Nguyễn Văn Mại (Tiểu Cao), “Lô Giang tiểu sử”, Nguyễn Hy Xước dịch, bản in ronéo (bìa in typo), 1961.

27. Nguyễn Văn Tường, “Di cảo Nguyễn Văn Tường”, Trần Đại Vinh dịch, Nxb.?, 1991.

28. Trần Xuân An chú thích, biên soạn, “Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng”, [Nguyễn Văn Tường (tác giả Kì Vĩ quận công thi tập)], Trần Viết Ngạc, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển, TS. Võ Xuân Đàn, GS. Đoàn Quang Hưng, Nguyễn Tôn Nhan, TS. Ngô Thời Đôn sưu tầm, khảo luận, phiên dịch, hiệu đính…, chưa xuất bản.

29. Nguyễn Văn Tường, “Kì Vĩ quận công thi tập”, 65 bài thơ chữ Hán, Trần Viết Ngạc sưu tầm, giới thiệu, Trần Đại Vinh, Vũ Đức Sao Biển dịch, giới thiệu [mới 45 bài], tư liệu Hội nghị Khoa học lịch sử “Nhóm chủ chiến Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, 20.6.1996, ĐHSP. TP.HCM..

30. Phạm Văn Sơn, “Việt Nam cách mạng cận sử”, Sài Gòn, 1963.

31. Phan Bội Châu, “Những tác phẩm của Phan Bội Châu”, Chương Thâu dịch, Văn Tạo chủ biên, Hồ Song giới thiệu, Nxb. KHXH., 1982.

32. Phan Khoang, “Trung Quốc sử lược”, ấn quán Hồng Phát, bản in lần thứ 3, 1958.

33. Phan Khoang, “Việt Nam Pháp thuộc sử (1858 – 1945)”, Phủ QVK. ĐTVH. (Sài Gòn), bản in lần thứ hai, 1971.

34. Phan Trần Chúc, “Vua Hàm Nghi”, Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1995.

35. Quốc sử quán triều Nguyễn, “Châu bản triều Tự Đức (1847 – 1883)”, Vũ Thanh Hằng, Trà Ngọc Anh, Tạ Quang Phát tuyển chọn và dịch (lược thuật), Ban Văn học thuộc Viện KHXH. TP. HCM. in ronéo, 1979; Trung tâm Nghiên cứu Quốc học chỉnh lí, Nxb. Văn Học, 5.2003.

36. Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam liệt truyện, chính biên”, bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học, 4 tập, Nxb. Thuận Hóa, 1993.

37. Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục, chính biên”, các tập từ 11 đến 38, bản dịch Tổ Phiên dịch Viện Sử học, Nxb. KHXH., 1964 – 1978.

38. Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học, “Những trang Đại Nam thực lục về KVPCĐT. Nguyễn Văn Tường và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp (1858 – 1885)”, Trần Xuân An chọn lọc, chưa xuất bản.

39. Quốc sử quán triều Nguyễn (QSQTN.), “Quốc triều chính biên toát yếu”, bản dịch tiếng Việt của QSQTN., Nxb. Thuận Hóa, 1998.

40. Thái Vũ, “Nguyễn Văn Tường và vai trò của ông trong cuộc chống Pháp cuối thế kỷ XIX”, tạp chí Cửa Việt số 13, tháng 4. 1992.

41. Tự Đức, “Tự Đức thánh chế văn tam tập”, quyển IX – XIV, tập 2, Bùi Tấn Niên, Trần Tuấn Khải phiên dịch, Tủ sách Cổ văn, UBDT. PQVK. ĐTVH. xb., Sài Gòn, 1973.

42. Tự Đức, “Thơ văn Tự Đức”, 3 tập, Nxb. Thuận Hóa tái bản, 1996.

43. Trần Ngọc Thêm, “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Trường ĐHTH. TP. HCM. xb.,1995.

44. Trần Tam Tỉnh, “Thập giá và lưỡi gươm”, Vương Đình Bích dịch từ nguyên tác tiếng Pháp, Nxb. Trẻ, 1988.

45. Trần Thị Kim Hoa, “Góp phần tìm hiểu vua Hiệp Hoà”, luận văn tốt nghiệp, khoá 1991 –1995, Khoa Sử ĐHSP. TP.HCM., tháng 4.1995.

46. Trần Trọng Kim, “Việt Nam sử lược”, bản in lần thứ 7, Nxb. Tân Việt, 1964.

47. Trần Văn Giàu, “Chống xâm lăng”, trọn bộ 3 tập, Nxb. TP.HCM. tái bản, 2001.

48. Trần Văn Giàu, “Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử”, Nxb. TP.HCM., 1993.

49. Trần Văn Giàu, “Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử”, Nxb. KHXH., 1975.

50. Trần Xuân An, “Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)”, truyện kí – khảo cứu lịch sử, hai tập I & II, 2002, hai tập III & IV, 2003; Nxb. Văn Nghệ, TP.HCM., 2004.

51.Trần Xuân An, “Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp””, chưa xuất bản.

52. Tsuboi (Yoshiharu), “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, Nguyễn Đình Đầu và nhóm cộng tác viên dịch, Ban KHXH. Thành ủy TP. HCM. xb., 1990.

53. Viện Văn học (nhiều tác giả, GS. Nguyễn Huệ Chi chủ biên), “Thi hào Nguyễn Khuyến, đời và thơ”, Nxb. KHXH., 1992.

54. Vụ Bảo tồn bảo tàng, “Niên biểu Việt Nam”, in lần thứ 4, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1999.

(*) Về những sách báo tham khảo trên đây, người biên soạn xin cảm ơn các tác giả, soạn giả, và chỉ tiếp nhận những tư liệu, ý kiến xét thấy là đúng (có chú thích xuất xứ rất cụ thể), trên cơ sở lấy "Đại Nam thực lục chính biên" các kỉ IV, V, VI làm chuẩn cứ. Nói như vậy, có nghĩa là, về những ý tưởng không ghi xuất xứ, bản quyền những ý tưởng ấy không của ai khác, mà chính của người biên soạn (Trần Xuân An). Ở bình diện khác, cũng có những chỗ tôi ghi xuất xứ, nhưng chỉ để phê phán, đả phá ngay trong cuốn sách này.
Ngoài ra, trên đây, tôi cũng đã liệt kê một số cuốn sách khác mà tôi đã viết hoặc đã biên soạn. Qua đó, cũng như vậy, tôi đã trực tiếp hoặc gián tiếp tranh luận, có chỗ đành phải mạn phép đả phá trên tinh thần khoa học, dân chủ trong học thuật, và theo phương châm “học thuật là cuộc đua tiếp sức”.
Và có lẽ cũng cần nói thẳng: Những cuốn sách, bài nghiên cứu của các tác giả mà tôi đã liệt kê ở danh mục sách báo tham khảo bên trên, được các tác giả ấy viết theo nhiều quan điểm, khuynh hướng chính trị khác nhau và ảnh hưởng bởi những nguồn tư liệu không giống nhau (sách báo của một số tác giả Trung Hoa, Nhật, Pháp, Thiên Chúa giáo, Đàng Ngoài, maoism, kể cả “ấu trĩ tả khuynh”, phần lớn xuất hiện trước thập niên 50 hoặc 60 / XX …); trong đó, có khoảng mươi cuốn sách, bài đăng báo được viết bởi những tác giả còn thiếu tinh thần khoa học, có vấn đề trong phương pháp nghiên cứu sử học, thậm chí viết sử theo phương châm bá đạo "vấn mục đích, bất vấn thủ đoạn", rất đáng phàn nàn, trách cứ.
Ngày xưa, Tự Đức, một hoàng đế phong kiến, vẫn còn "trông mong lời nói thẳng", huống gì những nhà nghiên cứu sử học ngày nay! Tôi nói thẳng thắn như thế với niềm hi vọng và tin tưởng rằng: Nhà nghiên cứu khoa học đích thực là nhà dân chủ chân chính
. TXA.


(**) Liệt kê theo nguyên tắc nghiên cứu khoa học: Khi viết về một đề tài nghiên cứu nào đó, người viết phải nắm vững lịch sử đề tài (đã có bao nhiêu người viết về đề tài ấy và họ đã viết như thế nào, tư liệu được sử dụng ra sao...). Đi đôi với yêu cầu liệt kê danh mục sách báo tham khảo này là yêu cầu phê phán những sai lạc và khẳng định những đóng góp có giá trị học thuật trong số sách báo đó.
Cũng cần khẳng định: Trong khoa học, chân lí và sự thật không nhất thiết thuộc về số đông. Nhưng ở vào diện số ít có khoa bảng hoặc có công trình nghiên cứu riêng, nếu sai lầm thì vẫn là sai lầm. Vấn đề quan trọng có tính quyết định là nhân chứng, vật chứng có giá trị sử học cao (tư liệu gốc được giám định). Vấn đề không kém phần quan trọng có tính quyết định khác là cơ chế dân chủ đích thực, chân chính, luôn luôn tôn trọng, bảo lưu ý kiến cá nhân, và quyết nghị có tính hội đồng (tập thể), trong lĩnh vực sử học. Dĩ nhiên, không chỉ nhân chứng, vật chứng lịch sử, mà cả ý kiến cá nhân lẫn quyết nghị hội đồng về vấn đề sử học, tất cả đều phải được phổ biến công khai. Nhiều nhà khoa học chân chính đã tâm đắc điều đó; và họ không thể không lưu tâm, tự nhắc nhở đến tiêu chí nhận định sử học: đạo lí dân tộc và công lí nhân loại về độc lập, tự do của Tổ quốc và dân tộc.
Xin thưa thêm đôi điều như vậy dưới bảng liệt kê danh mục sách tham khảo này. TXA.



KÍNH MỜI ĐỌC NHỮNG ĐOẠN TƯƠNG ỨNG VỚI CÁC PHẦN THUỘC ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT NÀY TRONG BỘ SÁCH TRUYỆN - SỬ KÍ - KHẢO CỨU TƯ LIỆU LỊCH SỬ "PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 - 1886)", NXB. VĂN NGHỆ TP. HCM., 2004.:
http://tranxuananpcdtnvt4c.blogspot.com/

NGƯỜI BIÊN SOẠN XIN ĐÓN NHẬN MỌI Ý KIẾN PHÊ BÌNH, GÓP Ý.
Trân trọng và cảm ơn.
TXA.

Địa chỉ người biên soạn:

TRẦN XUÂN AN
71B Phạm Văn Hai
(cửa hiệu tạp phẩm Phan Huyên)
Phường 3, Tân Bình
Thành phố Hồ Chí Minh.

ĐT: [08].8453955
& 0908 803 908
Điện thư: tranxuanan_vn@yahoo.com




HẾT

Xếp chữ xong chương chin
(cũng là chương cuối của cuốn sách )
,
vào lúc 20 giờ 17 phút,
ngày thứ ba (thứ tư cũ) 22-02 HB6 ( 2006 )
[25 tháng giêng, Bính tuất HB6 ]
tại Tp. HCM., Việt Nam.

Trần Xuân An


_____________________

11 g 10' & 14 g 29', ngày 23-02 HB6;
7 g 05', ngày 24-02 HB6, tại TP.HCM., Việt Nam.

0 Comments:

Post a Comment

<< Home