TRAN XUAN AN - TIEU SU BN. PCDT. NGUYEN VAN TUONG [ 2 ]

Cuốn sách này, tác giả biên soạn để làm sách dẫn, phục vụ việc nghiên cứu "Đại Nam thực lục chính biên" (IV, V, VI); đồng thời, đây cũng chính là đề cương chi tiết của bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử của tác giả: "Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886)" (Nxb. Văn Nghệ TP. HCM., 2004). Trần Xuân An.

17.2.06

TIỂU SỬ BIÊN NIÊN PCĐT. NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tệp 9)

TRẦN XUÂN AN
(biên soạn)

TIỂU SỬ BIÊN NIÊN
KÌ VĨ PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886),
“kẻ thù lớn nhất
của chủ nghĩa thực dân Pháp”

(tiếp theo)
(Tệp 9)
(chương tám / phần 2 / còn tiếp)


H. CHƯƠNG TÁM (phần 2)
(tiếp theo tệp 8, phần 1, chương tám)

++ Vua Kiến Phúc ốm từ tháng 4 âl., Giáp thân (1884) năm nay. Sau đó, vua lại khỏe. Ngày mùng 7 tháng sáu âl. tháng này, vua ngự ở điện Văn Minh; đình thần chầu mừng; vua ban thưởng. Liền đó, vua trở bệnh. Ngày mùng 10 (cách ngày ngự chầu chỉ 3 hôm), bệnh vua trở nên nguy kịch, và mất vào giờ ngọ (11 – 13 giờ trưa) tại chính tẩm điện Càn Thành. Hoàng thái phi cho vời Miên Định, Hồng Hưu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật đến để truyền di chúc: Lập Ưng Lịch, em ruột của vua Kiến Phúc, làm vua nối ngôi. Tất cả tôn nhân, đình thần tâu lên Từ Dũ, Khiêm hoàng hậu Vũ thị; rồi cùng rước Ưng Lịch vào cư tang, làm tự quân.
Kiến Phúc được thờ ở Thế miếu (vua chính thống, ngang với các tiên đế: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị…), vào đời Thành Thái (năm thứ 6 [1894]).
(sđd., tr. 150 – 151).
++ Ngày 12 tháng 6 âl., Giáp thân (1884), Ưng Lịch lên ngôi ở điện Thái Hòa, lấy niên hiệu Hàm Nghi. Ưng Lịch được sinh ra đời vào ngày 17 tháng 02 âl., Tự Đức năm thứ 24, Tân mùi (1871). Mẹ ruột của Ưng Lịch (Hàm Nghi) là Phan Thị Nhàn.
(sđd., tr. 153 – 154).
++ Vẫn như lệ trước, sắc dụ quy định: Mọi phiến tấu ở các nha 6 bộ và chương sớ bốn phương, trước hết phải do phụ chính Cơ mật viện đại thần (*) duyệt biện, rồi mới tấu lên cho vua nghe.
(sđd., tr. 154).
---- (*) Phụ chính Cơ mật viện đại thần gồm Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Phạm Thận Duật. ----
++ Lại bộ tả tham tri Bùi Ân Niên kiêm sung tham biện sự vụ Cơ mật viện; thự Binh bộ tả tham tri Nguyễn Thuật: quyền sung Nội các sự vụ. Đó là 2 người am luyện.
(sđd., tr. 155).
++ Thương bạc đại thần ở Cơ mật viện đưa thư về lễ tấn quang vua Hàm Nghi cho Lê Na (Rheinart) để y chuyển quan Mi Lô (Millot), gửi về quốc trưởng Pháp.
(sđd., tr. 155).
++ Khai phục nguyên hàm tổng đốc Định – An (Yên) cho Vũ Trọng Bình (ông đã về quê hưu trí, 72 tuổi [*]).
(sđd., tr. 156).
---- [*] Người biên soạn (Trần Xuân An) bổ sung (2004) vào bản in vi tính năm 2001: Sinh nhật 70 tuổi vào tháng 11 âl., Nhâm ngọ (1882). (Xem lại: ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 159 – 160). Tuy nhiên, theo một tư liệu gần đây, năm Giáp thân này, ông đã 74 tuổi ta (Lê Đình Lờng, Tạp chí Xưa & Nay, số 219, tháng 9-2004, tr. 30 – 31: Vũ [Võ] Trọng Bình, người làng Mỹ Lộc, xã An Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, sinh năm 1807, mất năm 1898, thọ 91 tuổi). Vũ (Võ) Trọng Bình nhận tặng phẩm vua Tự Đức ban vào năm Nhâm ngọ (1882), nhân sinh nhật 70 tuổi chẵn của mình. Chẳng lẽ Vũ Trọng Bình không rõ tuổi chính ông? Thời ông sống, cần gì phải khai sai lệch tuổi! Chắc hẳn ĐNTL.CB. chính xác hơn, ở chi tiết này. ----
++ Khâm sứ Pháp Lê Na (Rheinart) cùng quan quân vào điện Thái Hòa, dâng sớ và phẩm vật làm lễ tấn quang vua Hàm Nghi (lễ này đã được triều đình tiến hành rồi, nay Pháp ngang ngược ép buộc phải làm lại!). Lê Na (Rheinart) cũng trao quốc thư của quốc trưởng Pháp, và y lại yêu cầu cho quan quân Pháp vào đóng ở Trấn Bình đài (Mang Cá), vốn bị điều 5 của “hòa” ước Giáp thân 1884 xem là nhượng thổ! Triều đình đành chấp nhận.
(sđd., tr. 156 – 157).
++ Phụ chính đại thần bàn với Lê Na (Rheinart), thuê người Pháp quản đốc 3 chiếc thuyền của ta để chở gạo về kinh (bị điều 3 “hòa” ước Giáp thân [1884] ràng buộc!).
(sđd., tr. 157).
++ Thượng thư Pháp Sinh Bích (Silvestre) đòi triệt lính tỉnh, chỉ chừa lại lính tuần, lính lệ, phu trạm, ở 4 tỉnh Bắc Kỳ.
(sđd., tr. 157).
++ Khai phục cho Nguyễn Hữu Độ, nhưng điều động về kinh làm biện lí Bộ Lại; điều chuyển Nguyễn Trọng Hợp thay Nguyễn Hữu Độ, làm quyền lí tổng đốc Hà – Ninh. Tướng Pháp Mi Lô hai lần thương thuyết, nên đành chuẩn cho cả hai viên quan này lưu lại chức cũ. Hai phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trách Nguyễn Hữu Độ: “xem gió chuyển buồm” !
(sđd., tr. 157 – 158).
(xem lại: sđd., tr. 130 – 131).
Đến thời điểm này, bản chất cơ hội, tay sai của Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Trọng Hợp đã lộ rõ.
++ Cho Ê Mô Ni Ê (Aymonier) (*), người Pháp, du khảo bác vật (truyện dân gian, vật kiến tạo…). Viện – Bạc cấp giấy đi lại, trừ các chỗ cấm.
(sđd., tr. 158).
---- (*) Xem: Inrasara (sưu tầm, phiên dịch, giới thiệu), Văn học Chăm II – Trường ca, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1996, tr. 161 – 193: Ariya “Po Parơng” [“Quan lớn Pháp”] của Hơp Ai (tác giả người Chăm). ----
++ Tổ chức quân võ sinh, huấn luyện võ nghệ và bắn súng…
(sđd., tr. 158).
++ Ân khoa thi hương võ: chuẩn cho sang năm hợp với chính khoa, lấy thêm cử nhân, tú tài võ ở ngạch đỗ.
(sđd., tr. 158).
+++ Tháng bảy âl..
++ Tổ chức đàn chay ở chùa Linh Mụ (Huế) 7 ngày (cho vua Tự Đức).
(sđd., tr. 158).
++ Hà Nội và Mỹ Đức có những bọn cướp, nổi loạn (*). Cao Xuân Dục đánh dẹp đắc lực. Hoàng Cao Khải (tri huyện Thọ Xương, Hà Nội) phối hợp với Pháp để trấn áp. Cả hai đều được thăng hàm chức.
(sđd., tr. 159).
---- (*) Dương Hữu Quang (Tín Nghĩa hội) và Sô (So, phỉ, đã chuyển hóa, hướng thiện) được Hoàng Tá Viêm thu phục, đánh Pháp; Quốc sử quán đã ghi nhận (xem lại sđd., tr. 57). Nhưng vẫn có một số cuộc khởi nghĩa chống Pháp ngoài vòng quản lí của triều đình, bị đánh đồng với bọn trộm cướp đích thực thừa thời cơ “nước đục thả câu”, “giậu đổ bìm leo” chăng?
Khác với các cuộc nổi dậy ở Nam Kỳ, vốn được Tự Đức và đình thần đánh giá rất cao (như Trương Định và nhiều cuộc khởi nghĩa ở vùng đất này), chúng ta thấy các cuộc nổi dậy (nổi loạn? khởi nghĩa?trộm cướp?...) ở Đàng Ngoài luôn là mối âu lo cho triều Nguyễn
Nói chung, trên bình diện khái quát, để đánh giá đúng các cuộc nổi dậy trong lịch sử thời cổ đại, trung đại và cận – hiện đại, rất cần thiết phải căn cứ vào yêu cầu khách quan của bối cảnh lịch sử (Có cần phải nổi dậy hay không? Hay chỉ là sự nổi loạn cá nhân? “Thà chết vinh còn hơn sống nhục” cho dù manh động, không lượng được thời, thế, cơ?); căn cứ vào “ngọn cờ”, tuyên ngôn, khẩu hiệu (ở thời Nguyễn, là ngọn cờ phù Lê, “Bắc Kỳ thuộc Pháp”…) và đặc biệt là hoạt động cụ thể (có cướp của cải để tiêu xài, làm giàu, có hà hiếp người dân lương thiện hay không?), “thành phần” (xét dưới góc độ chủng tộc, tín ngưỡng [ở thời Nguyễn là tín ngưỡng Thiên Chúa giáo…]…) của các loại “giặc”, để từ đó, chắc hẳn phải xác minh cụ thể từng trường hợp một.
Dưới thời phong kiến cổ xưa nói chung vẫn có câu truyền miệng hầu như không một ai không biết: “Được làm [:là] vua, thua làm [:là] giặc”. Và vũ khí thời xưa, vẫn còn thô sơ (gươm, đao, dáo, mác…), rất dễ tự chế tạo để nổi dậy. Các cuộc nổi dậy ấy, có thể là chính nghĩa (chống giặc ngoại xâm), có thể chỉ là “giặc” nổi loạn (chống bọn thống trị tàn ác), chỉ là bọn cướp của giết người đích thực… Có những trường hợp xin xếp vào loại tồn nghi. ----

++ Đặng Đức Địch: thăng thụ Hình Bộ tả tham tri, quyền lãnh thượng thư, vẫn kiêm Sử quán toản tu.
(sđd., tr. 159).
++ Tu sửa đền đài miếu mạo ở Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ.
(sđd., tr. 159 – 160).
++ Lễ Ninh lăng vua Kiến Phúc. Ban dụ.
(sđd., tr. 160 – 163).
++ Mở kinh diên (giảng sách cho vua). Phụ chính đại thần và giảng quan đến chầu giảng, vâng đợi vua hỏi han.
(sđd., tr. 163).
++ Ông Ích Khiêm phạm tội (*): tự tiện đem lính theo hộ tống (50 viên), lấy công nữ, đuổi cư dân để xây nhà riêng; do đó, bị chưởng ấn tâu hặc. Bộ Hình (do tham tri, biện lí hội đồng giữ ấn) nghị xử. Ông Ích Khiêm chết ở ngục Bình Thuận; được khai phục Hàn lâm viện thị độc và được cấp tuất.
(sđd., tr. 163 – 164) (**).
---- (*) Đối chiếu với “Đại Nam liệt truyện”, tập 4, sđd., tr. 281: vào tháng 5 âl., Giáp thân (1884).
(**) Xem trích đoạn nguyên văn ĐNTL.CB., sđd., số tr. đã ghi trên:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_nvt_phulucII.htm
----

++ Tha và triển hạn binh, thuế cho các tỉnh Bắc Kỳ.
(sđd., tr. 164 – 165).
++ Tu sửa Sơn phòng Dương Hòa (Quảng Nam). Đốc tiễu sứ, là tiến sĩ Trần Văn Dư (Trần Dư), xin tăng thêm việc chứa muối, gạo, cho thế lực tả kì thêm hùng hậu.
(sđd., tr. 165).
+++ Tháng tám âl..
++ Trương Quang Đản: thự lí tuần phủ Trị – Bình.
(sđd., tr. 165).
++ Ân khoa thi hương văn ở Thanh Hóa, Nghệ An.
(sđd., tr. 165).
++ Lễ tấn tôn tên thụy và tên hiệu cho vua Kiến Phúc. Dụ: “… Đương cho là mặt trời mới mọc, thị thính duy tân…”; sách văn: “… Buổi mặt trời mọc, biên đình [biên cương, triều đình] đa gian…”.
(sđd., tr. 165 – 169).
++ Dương Danh Lập, quyền tuần phủ Thái Nguyên, tự tiện nghỉ việc: về hưu. Thự thượng thư Bộ Công Đoàn Văn Hội can tội tọa biếm: về hưu (sau Đoàn Văn Hội lại ra làm quan thời ngụy vương Đồng Khánh!).
(sđd., tr. 169).
(xem lại: sđd., tr. 90 – 93).
++ Kỳ Phong công Hồng Đình (vốn có nhiều tội lỗi về đạo đức) phạm tội bất mãn, không chịu làm việc, bị trảm giam hậu; đang giam chờ xét, vụt chết trong tù. Khai phục.
(sđd., tr. 169 – 170).
++ Hồng Chuyên, Hồng Tu, đang bị giam giữ để đội lệnh (đội ơn lệnh tha hoặc chờ xét), nhưng cả hai thông đồng bẻ cùm, vượt ngục; lại bị bắt được; xử chém ngay.
(sđd., tr. 170).
++ Sét đánh cây tháp Phúc Duyên ở chùa Thiên Mụ (Linh Mụ), Huế.
(sđd., tr. 171).
+++ Tháng chín âl..
++ Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dời Dục Đức (Ưng Chân) xuống giam ở ngục Thừa Thiên từ tháng trước (tháng 8 âl., Giáp thân [1884]), không cho ở tại Viện Thái y nữa. Hai vị phụ chính tâu với vua Hàm Nghi: Gần đây, Hồng Đình, Hồng Chuyên (và cả Hồng Tu) đã vượt ngục được, do đó cần thủ tiêu Dục Đức ngay, kẻo trở ngại về sau. Và Dục Đức không được cho ăn uống; đến ngày mùng 6 tháng 9 âl. này, Dục Đức chết (vào giờ thìn [7 – 9 giờ sáng]). Người coi ngục cứ báo là tuyệt thực (để phản đối) mà chết. Nguyên phi và thứ thiếp cùng các con của Dục Đức vốn sống chung với Dục Đức ở Viện Thái y, nay đều cho về sống ở Phú Lương, Phú Xuân, được Phủ Thừa Thiên cấp lương tiêu dùng.
(sđd., tr. 172 – 173).
Căn cứ theo ĐNTL.CB., tập 36, sđd., số trang ghi trên, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết hạ lệnh thủ tiêu Dục Đức, đã có tâu trước với vua Hàm Nghi (15 tuổi âl., không ghi rõ vua có chuẩn cho hay không, nhưng trong thực tế chắc chắn là đã chuẩn y lời tâu) với lí do là để khỏi trở ngại về sau (Dục Đức mưu chiếm lại ngai vàng và đã thương cầu thân với Pháp; hoặc như vụ Hồng Bảo, Ưng Đạo (Đinh Đạo) thời Tự Đức, hoặc như gần đây, vụ Hiệp Hoà và Hồng Hưu [vụ Hồng Hưu đang được điều tra, nghị xử]). Nói gọn hơn là, hai vị phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết muốn giữ yên và giữ vững ngai vàng cho vua Hàm Nghi, nên phải loại trừ những nguy cơ, những mưu đồ lật đổ, tranh đoạt thường hay xảy ra dưới chế độ phong kiến quân chủ.
Xin lưu ý: Lâu nay có rất nhiều cuốn sách được viết ra bởi những người không chịu tra cứu cẩn trọng, cho rằng Dục Đức chết ngay sau ngày bị truất phế (tháng 6 âl., Quý mùi [1883])! Thật ra, đến tháng 9 âl. này, tức là sau một năm, gần tròn 3 tháng, Dục Đức mới chết.


_________________________

Phụ lục 1 của phần 2 chương tám:
Nguyên văn trong ĐNTL.CB. , tập 36, sđd., 1976, tr. 170 – 173, như sau:

“[Tiểu đề:] Giáp thân, năm Kiến Phúc thứ nhất [đời vua Hàm Nghi] (1884), tháng chín, mùa thu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết dời để vua mới nối ngôi là Thụy quốc công xuống ngục, rồi giết ngầm đi”.
“[Phần thuyết:] Tháng trước, [hai quan phụ chính đại thần Nguyễn] Văn Tường và [Tôn Thất] Thuyết tâu nói: “Gần đây Nha Vệ thành canh phòng hờ hững, nên tên [Hồng] Đình, [Hồng] Chuyên đã vượt được ngục. Vậy tự quân ở lâu Viện Thái y (nguyên tự quân trước bị giáng làm công tử, giam giữ ở đấy), cũng nên làm sớm đi, để khỏi sự trở ngại về sau. Xin chuyển dời sang nhà ngục phủ Thừa Thiên để giam giữ cho được cẩn mật.
Tâu lên, làm ngay.
Các con trai con gái đều cho theo về với mẹ, giao về quê ngoại quản thúc. Nguyên phi Phan thị (tức là hoàng thái hậu ngày nay) bèn cùng với người con thứ bảy (tức là vua bây giờ) [:vua Thành Thái, trị vì trong suốt thời điểm phần sử các kỉ IV, V được biên soạn], con thứ chín là Bảo Đóa (tức là hoàng tử thứ chín bây giờ) cùng về xã Phú Lương. Hoàng tử thứ mười là Bảo Khiêm theo sinh mẫu là Nguyên Văn thị về ngụ ở xã Phú Xuân. Hoàng tử thứ mười một là Bảo Lỗi còn ở trong bụng. (Tên các hoàng tử đều theo bộ “sơn”, lần này phải đổi theo bộ “thạch”; nay [thời vua Thành Thái] vẫn viết theo bộ “sơn”). Lương xướng do phủ Thừa Thiên đệ cấp.
Rồi hai người [:hai quan phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết] bí mật sai không cho tự quân ăn uống.
Đến ngày mồng sáu tháng ấy là ngày đinh mùi, giờ thìn, thì tự quân chết ở ngục. Người coi ngục cứ báo là chẳng ăn mà chết; bèn an táng ở cánh đồng xứ Tứ Tây, xã An Cựu, huyện Hương Thủy (nay [thời vua Thành Thái] dâng tên là An lăng)”.

(ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 172 – 173).

________________________

++ Khâm sứ Lê Na (Rheinart) gửi văn thư: Pháp và Trung Hoa (nước Thanh) đã giảng hòa ở Yên Kinh [kí kết hiệp ước Thiên Tân], do nước Nga đứng ra điều đình. Viện – Bạc tâu lên vua.
(sđd., tr. 174).
Từ thời điểm này, Đại Nam nước ta không còn hậu thuẫn nước ngoài nào nữa, cũng không thể xây dựng căn cứ kháng chiến và hoạt động kháng chiến trên đất Trung Hoa, một Trung Hoa vốn bị xâu xé từ cuộc chiến tranh thuộc phiện lần thứ nhất và “hòa” ước Nam Kinh (1842), đến nay lại bại trận với tổn thất nặng nề trong cuộc chiến Pháp – Hoa (1883 – 1884).
Còn Chân Lạp, tức Cao Miên, vốn đã bị Pháp xâm lăng hẳn từ lâu trước đó (1864, 1884)! Miến Điện, Xiêm La, Ấn Độ, Mã Lai, Lữ Tống (Philippines)… cũng trong hoàn cảnh bị thực dân Phương Tây xâm chiếm tương tự!
Riêng về Lào, từ 1779, nước láng giềng này đã nằm dưới ách đô hộ tàn bạo của Xiêm La. Tình cảnh đó kéo dài mãi cả lúc Xiêm phải kí “hòa” ước với thực dân Anh vào tháng 4-1885; rồi tiếp theo đó, Lào trở thành miếng mồi bị Mỹ, Pháp, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Hà Lan… xâu xé. Tuy vậy, Xiêm vẫn còn đủ sức tàn để giữ chặt Lào. Do đó. Lào nằm dưới hai tầng ách!
Trong bối cảnh ấy, Pháp vẫn tiến hành thám hiểm sông Mê Kông (Khung Giang), vào năm 1858 – 1866. Cùng với các toán thực dân khoác áo khoa học (du khảo bác vật), chuẩn bị dùng khoa học làm phương tiện khai thác thuộc địa, Pháp vẫn còn dùng đến công cụ tâm linh – chính trị là tả đạo Thiên Chúa giáo. Đây là một bằng chứng trong ĐNTL.CB.:
“Năm ngoái, [Tôn Thất] Trường nghe hơi những dân giáo ở thượng du tụ họp, bèn phi hội với Sơn phòng sứ là Hồ Tư Cung, phó sứ Đỗ Huy Toản, phái người đi thám, có đúng, tức thì đến trong rừng rậm, làm bí mật cho mất tăm tích”, “giáo mục là Trần Lục hằng tới đến dinh sứ Pháp kêu xin tư xét…” (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 89 – 90).
Và đây là những lượng thông tin từ những nguồn tư liệu khác, về những vùng rừng Nghệ An, Thanh Hoá:
“Vốn có kinh nghiệm trong việc chinh phục vùng dân cư nghèo đói, lạc hậu, thực dân Pháp cũng tung các giáo sĩ sang Lào, tiến hành thâm nhập vào quần chúng. Tháng 01.1873, chúng phái hàng chục giáo sĩ sang Đông bắc Lào. Năm 1880, giám mục Puginier lại phái thêm ba mươi (30) giáo sĩ nữa. Cho đến năm 1883, bọn thực dân Pháp vác cây thánh giá đã tổ chức được đến năm ngàn (5.000) giáo dân ở miền Đông Lào. Những giáo sĩ nhiều khi đi theo đoàn quân làm sĩ quan tôn giáo, làm tên lính xung kích về tinh thần để chinh phục những vùng dân cư lạc hậu” (Võ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Võ Mai Bạch Tuyết, Lịch sử cận đại thế giới (LSCĐTG.), quyển III, Nxb. ĐH. & THCN., 1985, tr. 238).
Vì vậy, Đại Nam muốn đặt căn cứ kháng chiến trên đất Lào, phải nối lại quan hệ thông sứ (hữu nghị) với Xiêm. Nhưng thực dân Pháp tìm mọi cách li gián (phái bộ Nguyễn Hiệp, tức là Nguyễn Trọng Biện, đã báo cáo tình hình ấy với vua Tự Đức từ 1879). Đã thế, thực dân Pháp và bọn gián điệp đội lốt Thiên Chúa giáo của chúng, như Phu Nhu Chi (Puginier), lại truyền bá tôn giáo để tạo nên một mạng lưới chỉ điểm khắp vùng rừng núi đông bắc Lào (giáp giới tỉnh Thanh Hóa…) và chắc chắn cả ở vùng Hạ Lào, tức là vùng đông nam Lào (giáp giới Quảng Trị…).
(Xem lại: ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 89, 137; tập 34, sđd., tr. 233 – 235; tập 36, sđd., tr. 89 – 90;
Xem thêm: Trần Trọng Kim, “Việt Nam sử lược”, Nxb. Tân Việt, bản in lần thứ 7, Sài Gòn, 1964, tr. 558: về tên Met Ding Giê (Metzinger) và cố đạo Toóc Tuy Dô (Tortuyeaux) trong việc truy kích vua Hàm Nghi).
Tuy nhiên, trong thực tế, vùng rừng núi Trường Sơn, vùng thượng du Bắc Kỳ (Việt Bắc…) và ngay cả đất Lào (bọn thực dân còn chưa kiểm soát chặt chẽ) vẫn là địa bàn kháng chiến tốt. Hơn nữa, hệ thống các sơn phòng và thượng đạo đã được thiết lập, chiến thuật du kích (không cậy vào đồn lũy) đã được Cơ mật viện xác định. Nguyễn Văn Tường đã có kế họach xây dựng Tân Sở (tị địa, nếu cần, cho tam cung và quan lại già yếu…). Vấn đề chủ chốt vẫn là nguồn viện trợ súng đạn hiện đại của thời bấy giờ và một hậu phương. Kháng chiến chống Pháp (và liên minh thực dân Âu Mỹ nói chung) không thể chỉ với gươm đao như Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh (Trung Hoa). Hậu phương lúc này chính là triều đình Huế!
Xin xem quốc kế “chia tách triều chính” ở phần viết về thời điểm tháng 5 đến tháng 7 âl., Ất dậu (1885)
.
++ Khâm sứ ở Huế, từ nay kiêm chức toàn quyền đại thần Bắc Kỳ. Lý Mai (Lô Mi Ơ, Lemaire) đến thay Lê Na (Rheinart).
(sđd., tr. 174).
++ Ân khoa thi hương văn: cho sĩ tử Hà Nội, Nam Định vào Thanh Hóa thi. Đốc thần Nam Định Phan Đình Bình tâu rằng, công sứ Pháp cản đường, bắt một số sĩ tử làm sai dịch, không cho tất cả vào Thanh Hóa thi; xin đợi làm trường thi Nam Định lại hẵng mở khoa thi. Dụ trách, giáng Phan Đình Bình nhưng cho quyền hộ, vẫn hộ đốc Nam Định; động viên sĩ tử Bắc Kỳ; tha tiền nợ sĩ tử vay khi thi (do bị cản đường, hết sạch tiền gạo, nên triều đình có chỉ dụ cho sĩ tử vay).
(sđd., tr. 174 – 176).
++ Trấn [:Chấn] Tĩnh quận công Miên Trí tâu hặc Gia Hưng vương Hồng Hưu (vốn đang là phụ chính thân thần) về tội loạn luân với công chúa Đồng Xuân (thông dâm sinh một bé gái) và tội nhân việc tư bỏ việc công, tiết lộ việc quan trọng của quốc gia, trong đó có bí mật quân cơ (“quân quốc trọng sự”). Tôn nhân phủ bàn xét, cùng phụ chính đại thần xét nghĩ, tạm giao cho Sở Túc vệ giam giữ, điều tra. Nay Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tâu bày để triều đình, tôn nhân cùng xét nghĩ một thể. Bản tâu do Tôn Thất Thuyết viết và đọc. Nội dung như sau:
Kiến Phúc mất. Vâng lời di chúc, hai phụ chính và tôn nhân, đình thần đã lập vua Hàm Nghi. Trước ngày Hàm Nghi đăng quang, Lê Na (Rheinart) cho kí lục Lê Duy Hinh đến dinh phụ chính nói: Lê Na (Rheinart) sẽ gây chuyện, bắt hết gia đình hai phụ chính để hành tội! Hai phụ chính vẫn làm lễ đăng quang cho vua Hàm Nghi, đồng thời bảo Hồng Hưu rằng, nếu Hồng Hưu không có mưu mô tiếm đoạt ngai vàng, thi Hồng Hưu nên báo với Lê Na (hienart) để ngưng lại sự ngăn trở lễ đăng quang cho bớt việc, đỡ rối, và Lê Na (Rheinart) cũng không nên tiếp tục mưu tính ngăn trở nữa, sinh ra hiềm khích giữa triều đình nước ta với Sứ quán Pháp. Nhưng Hồng Hưu đã có âm mưu tiếm đoạt ngai vàng từ lâu, nên không chịu báo cho Lê Na (Rheinart) yêu cầu của hai phụ chính như đã nói trên. Và về phía Lê Na (Rheinart), y thấy âm mưu đưa Hồng Hưu lên ngôi vua không thành, nên y gửi văn thư cho quan binh Pháp ở Bắc Kỳ. Ngày 22-6 âl. vừa rồi, tham tán Pháp ở Bắc Kỳ điểu động hơn mười chiếc tàu thủy quân sự, vào Sứ quán Pháp ở Huế, để đe dọa triều đình, toan muốn sinh chuyện, và lại đòi vào Thành nội đóng giữ ở Mang Cá. Hai quan phụ chính bất đắc dĩ phải nhân nhượng để ổn định ngôi vua cho Hàm Nghi. Cũng theo yêu cầu của thực dân Pháp, và cũng bất đắc dĩ phải chấp nhận yêu cầu của chúng cho ổn định ngai vàng, hai vị còn xin vua chuẩn cho Pháp vào triều yết kiến, ngoài việc cho quan quân Pháp vào đóng ở Mang Cá (Trấn Bình đài). Do mưu ma chước quỷ thất bại, Hồng Hưu nằm rền trong phủ, thác bệnh, không đi làm. Các hoàng thân đã biết sự thật đó. Chính ngay Trấn Tĩnh quận công vừa tố cáo, cũng do lòng công phẫn của quận công ấy. Hồng Hưu lại còn bị phát hiện loạn luân với công chúa Đồng Xuân, sinh một bé gái! Tội án nặng thế mà còn dằng dai. Lẽ ra phải xử trí ngay. Đến lúc ấy, Lý Mai (Lemaire) đến thay Lê Na (Rheinart), nhưng Lê Na (Rheinart) hiện vẫn còn ở tại cửa biển Thuận An (Huế). Y lại lên Sứ quán Pháp tại Huế, cho người tới dinh phụ chính, bảo hai phụ chính phải ra lệnh tha Hồng Hưu, nếu không y sẽ gửi điện tín về Pháp, không khỏi sinh chuyện lôi thôi!
Bản tâu của Tôn Thất Thuyết còn ghi rõ: “Hôm qua, tôi [tức là Tôn Thất Thuyết] và Nguyễn Văn Tường đi đến Sứ quán…”
Lúc đó Lê Na (Rheinart) đã về Pháp. Khâm sứ mới đến thay là Lý Mai (Lemaire). Lý Mai (Lemaire) nói rằng: Trước đây, về việc đăng quang vua Hàm Nghi và việc Hồng Hưu không được lên ngôi vua, có người (ám chỉ Lê Na [Rheinart]) không bằng lòng, đưa tin gièm pha triều đình Đại Nam, đặc biệt là hai phụ chính, đã nhiều. Chính phủ Pháp do đó cũng sinh ra lệch lạc. Hai phụ chính nên xử trí cho khéo. Vả lại, Pháp bảo hộ Đại Nam, không can dự việc triều chính. Chỉ có việc lớn là tấn tôn hoàng đế và phong chức phụ chính đại thần, nên cho khâm sứ Pháp biết. Vậy mới hợp thể. Sau đó khâm sứ Pháp sẽ gửi công văn về Pháp, hẳn chính phủ Pháp sẽ bằng lòng. Còn tội án của Hồng Hưu, triều đình Đại Nam xử đoán như thế nào, khâm sứ Pháp không dám bàn. Vả lại, Hồng Hưu là hoàng thân, chú của nhà vua, tất nhiên cùng chung nỗi vui niềm lo, càng không dám bàn tới.
Đó là lời Lý Mai (Lemaire)
Xem vậy – Tôn Thất Thuyết viết tiếp (người biên soạn tạm ghi chép lại) –, khâm sứ Pháp đã nói đã làm, thì việc đồng mưu chung chước, đã khó che đậy được. Tuy nhiên, triều đình đang có tang, lòng quan lòng dân chưa định tĩnh, Từ Dũ thái hoàng thái hậu, hoàng thái phi (trước đây là Học phi) đang lúc đau thương, hai phụ chính không dám vào tâu, nên nén lòng chiều theo bọn Pháp (trong việc triều yết, đóng quân ở Mang Cá để nên việc lớn. Nay Hồng Hưu can khoản tội ấy, thật đáng sợ. Do các sự thể đó, nên Viện Cơ mật đã làm tờ tư, theo đề nghị của Lý Mai (Lemaire), giao cho y (*). Và Viện cũng đem cái án Hồng Hưu ra, để Tôn nhân phủ nghị xử, xét mức án, cho thi hành hình phạt.
Bèn chuẩn như lời tâu của Tôn Thất Thuyết (đại diện hội đồng phụ chính).
Bản án đã thành. Hồng Hưu bị cách bỏ chức tước, phải đi an trí ở Cam Lộ (Quảng Trị). Nhà Hồng Hưu có 7 công tử, đều bị giáng làm Tôn Thất, chia đi 3 tỉnh an trí, và bị quản chế.
(sđd., tr. 176 – 178).
---- (*) Pháp trịch thượng muốn được tỏ rõ quyền “bảo hộ”! ----

________________

Phụ lục 2 của phần 2 chương tám:
Nguyên văn trong ĐNTL.CB. , tập 36, sđd., 1976, tr. 176 – 178, như sau:.

“[Tiểu đề:] Phụ chính thân thần Gia Hưng vương kiêm sung tôn nhân phủ hữu tôn chính Hồng Hưu bị tội, cách chức tước, phải an trí ở phủ Cam Lộ”.
“[Phần thuyết:] Trước đây, Chấn Tĩnh quận công là Miên Trí tâu hặc vương ấy vì nhân việc tư bỏ việc công, tiết lộ quân quốc trọng sự, gia dĩ thêm thói dâm dục (cùng với công chúa Đồng Xuân can tội tước tịch, đổi theo họ mẹ là Hồ Thị Đốc, thông gian sinh con). Mọi khoản giao cho Tôn nhân phủ hội đồng, phụ chính đại thần xét nghĩ; bèn giao Sở Túc vệ giam xét. Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết lại đem đủ tình trạng vua ấy [:Gia Hưng vương] tâu bày, xin cùng xét nghĩ một thể.
(Tâu nói:
“Ngày tháng sáu, Giản tông Nghị hoàng đế [Kiến Phúc] mất, bọn chúng tôi vâng tuân lời di chúc, chọn lấy ngày mười ba (13) làm lễ tấn quang. Trước một ngày đó, sứ cũ Pháp là Lê Na [Rheinart] uỷ cho ký lục Hinh tới dinh bọn tôi nói: Nếu tôn Gia Hưng vương lên làm vua thì y thuận nghe, bằng không thế thì y gây chuyện, đem hết gia quyến bọn tôi bắt tội. Bọn tôi trộm nghĩ vì việc lớn của Nhà nước, không dám đoái riêng, một mặt cứ y ngày làm lễ tấn quang, một mặt nói với vương ấy, bằng không tình gì [:nếu không có tham vọng cướp ngôi vua], thì nên uỷ cho báo với sứ ấy đình chỉ [cho] bớt việc, đừng nên ngăn trở [việc tấn quang], sinh ngờ. Nhưng vương ấy để lòng đã lâu, không chịu uỷ báo cho sứ ấy. Chước đó không thành, [Rheinart] mới đưa thư cho quan binh ấy đóng ở miền Bắc [Millot]. Ngày 22 tháng ấy, quan tham tán đóng ở miền Bắc [Guerrier] xuất đem hơn mười (10) chiếc thuyền quân, đến Sứ quán đó. [Chúng] đe dọa, toan muốn sinh chuyện [với triều đình ta], và vào thành đóng giữ [tại Mang Cá]. Bọn tôi bất đắc dĩ phải nhấn nhún để định ngôi lớn, xin chuẩn cho quan ấy vào làm lễ tiến yết và cho quan binh ấy vào thành.
Từ đó đi, Hồng Hưu lấy bịnh nằm rền trong phủ đệ, không để ý gì đến việc công. Trong các hàng thân phiên đã có nhiều người cùng biết.
Chấn Tĩnh quận công thửa nói thế cũng do lòng công phẫn. Nay [vụ Hồng Hưu] phát ra việc này, tội án thật là sâu nặng, thế mà còn dám kéo dằng dai gần được một ngày. Lê Na [Rheinart đã có lệnh tạm thôi chức vụ khâm sứ, Lemaire thay thế, nhưng Rheinart còn chờ tàu] hiện đóng ở cửa đồn Thuận An, liền về [lại] Sứ quán, uỷ người tới dinh chúng tôi, bảo phải khoan tha cho Hồng Hưu về phủ, không thì y gửi điện về nước ấy, không khỏi lại sinh chuyện lôi thôi. Hôm qua tôi và Nguyễn Văn Tường đi đến Sứ quán ấy (Lê Na [Rheinart] về rồi), sứ mới [Lý Mai (Lemaire)] bảo rằng: “Trước đây về khoản làm lễ tấn tôn và việc Hồng Hưu, có người không bằng lòng (ám chỉ vào Lê Na [Rheinart]), đưa tin gièm pha đã nhiều. Nước ấy [:Pháp] hẳn cũng sinh lòng thiên lệch. Nay nên xử trí cho khéo. Vả, nước ấy bảo hộ quý quốc [:Đại Nam], việc triều đã chẳng hề can dự. Duy có việc lớn là lễ tấn tôn cùng với phụ chính đại thần đều là việc quan trọng, nên cho viên ấy [khâm sứ đương chức] dự biết, thế mới hợp thể, rồi về sẽ báo tin về nước ấy, hẳn sẽ bằng lòng. Còn tội án của Hồng Hưu, mặc dầu quý quốc xử đoán, viên ấy không dám nói các lẽ. Vả, Hồng Hưu hệ thuộc là người ý thân của nhà vua, chung lòng nghĩa vui lo”.
Xem như sứ Pháp thửa nói thửa làm, thì mối tình thông quan [loạn luân của Hồng Hưu, câu kết với Pháp], thực đã không thể che được, duy đương lúc Nhà nước có tang, lòng người chưa định, Cung [thái hoàng thái hậu Từ Dũ, hoàng thái hậu Vũ thị, hoàng thái phi Nguyễn Văn thị] đương lúc đau thương, bọn tôi không dám vào tâu, sợ phiền lòng thánh lo nghĩ, mà làm cho dân chúng ngờ hoặc, [chỉ] nín náu lựa theo để nên việc lớn. Nay [Hồng Hưu] can khoản ấy, vốn không dung giết, mà còn dám như thế, thực đáng khá sợ. Bọn tôi cùng bàn, nghĩ theo lời xin của sứ mới, do Viện tôi nghĩ soạn tờ tư, đệ giao cho sứ ấy, và đem cái án của Hồng Hưu để tuân làm”).
Bèn chuẩn như lời tâu. Đến đây án thành, [Hồng Hưu phải bị] cách bỏ chức tước, phát đi an trí ở phủ Cam Lộ, Quảng Trị. Phòng (nhà) vương ấy [Gia Hưng vương Hồng Hưu] có bảy công tử, [bị] giáng làm tôn thất, chia giao cho các tỉnh quản thúc. (Tôn Thất Huy, Tôn Thất Diễn an trí ở Cam Lộ; Tôn Thất Chuân, Tôn Thất Dũng, giao về Nghệ An; Tôn Thất Linh, Tôn Thất Tân, Tôn Thất Vệ, giao về Hà Tĩnh)”.

(ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 176 – 178).

______________________

++ Di chuyển trường thi Thừa Thiên đến địa phận hai xã La Chử, An Lưu (huyện Hương Trà) (vốn trước kia ở bên trái chùa Linh Mụ).
(sđd., tr. 178).
++ Hoài Đức quận công Miên Lâm: phụ chính thân thần (thay Hồng Hưu).
(sđd., tr. 178).
++ Lý Mai (Lemaire) vào triều yết.
(sđd., tr. 178).
++ Dụ cho Sơn Tây, Bắc Ninh sớm đưa dân về quê cũ, cày cấy làm ăn sau cơn giặc giã, trộm cướp.
(sđd., tr. 178 – 179).
++ Hưng Yên, Hải Dương: đổi cấy lúa mùa làm cấy lúa chiêm.
(sđd., tr. 179).
++ Bộ Hộ (Phạm Thận Duật) xin trảm quyết (chém ngay) tên buôn tiền giả Lý Thành Long. Phụ chính duyệt y. Cho thông lục đến các nơi, theo đó mà xử án. Tiếp đến, La Đậu, Phan Vu Hán bị chém ngay; Phù Định Tam: án chém nhưng cho giam đợi xét (trảm giam hậu). Đó là những con buôn người nước Thanh (Trung Hoa).
(sđd., tr. 179 – 180).
++ Giáng Kiên Giang quận công xuống Kiên Giang hầu. Tôn nhân phủ, Nội các tâu nghị. Phụ chính phúc duyệt xin y, nhưng gia ân cho các viên giảng tập vẫn tiếp tục dạy dỗ, chỉ có chức sư bảo kèm cặp vốn do Phạm Thận Duật phụ trách là giảm bớt, để Tôn nhân phủ thần hướng dẫn cho Ưng Kỹ.
(sđd., tr. 180 – 181).
+++ Tháng mười âl..
++ Chẩn cấp bão lụt ở Nam, Ngãi, Trị.
(sđd., tr. 181).
++ Nghị xử vụ kho bạc, kho thóc ở Thanh Hóa bị tham nhũng.
(sđd., tr. 181 – 182).
++ Định lệ tăng lương cho con trai, con gái của hoàng thân, vương công, tôn thất được bổ nhiệm và cư trú các nơi ngoài kinh đô (theo chức trách, hôn nhân và sở thích).
(sđd., tr. 182 – 183).
++ Lấy tiền thật ở kho đổi tiền giả dân lỡ dùng. Biện pháp này khó chu tất, nên phải cấm tiền giả. Bèn giảm mệnh giá tiền thật (loại 6, 7 phân) để tiền giả (đúc xấu hơn) bị dân loại trừ và bọn đúc tiền giả không đúc nữa vì không có lợi. Mặt khác, bọn chở tiền đồng thật của ta ra nước ngoài, không kể chở ít hay nhiều, khi quan quân bắt được, đều chuẩn cho chém ngay (trảm quyết). Đồng thời nâng giá vàng bạc, không được giảm giá dưới giá quy định. Lúc ban dụ thi hành, lại nảy sinh bọn hiếu sự đi rình rập những người đòi ăn của đút và cáo phát quan lại, làm rối việc, chợ búa không yên. Rồi việc dân gian mua bán vẫn trôi theo nếp cũ. Không thể định giá theo mệnh lệnh hành chính được.
(sđd., tr. 183 – 184).
++ Khởi phục cho Nguyễn Chính: hồng lô tự khanh, vẫn sung Sơn phòng sứ Hà Tĩnh.
(sđd., tr. 184).
++Tổ chức xây dựng thêm Sơn phòng Hà Tĩnh. Nguyên Sơn phòng này ở huyện Hương Khê, có thượng đạo thông Quảng Bình, Quảng Trị phía trong, thông Nghệ An, Thanh Hóa phía ngoài, và thông sang Xiêm La. Từ lúc bổ Nguyễn Chính về làm chánh Sơn phòng sứ ở đây, Nguyễn Chính với phó sứ Phan Trọng Mưu, tham biện Phan Đình Phùng đã vạch kế hoạch lớn, và Cơ mật viện chước định: Xây thành đắp lũy, dựng công đường, tư thất, kì đài, pháo đài…; phái vệ binh chia ban luân phiên đóng giữ; đặt súng…; lại đặt Nha Sơn phòng phó sứ ở Đổng Chi, mở đường thượng lộ…
(sđd., tr. 184 – 185).
++ Dời chuyển, tổ chức Nha Doanh điền Quảng Bình. Từ lúc Trần Văn Chuẩn được sung làm sứ ở đó, ông đã vạch kế hoạch xây dựng, mở đường thượng lộ thông với Sơn phòng Quảng Trị, Hà Tĩnh, cũng tương tự như kế hoạch Sơn phòng Hà Tĩnh.
(sđd., tr. 185).
Như vậy hệ thống Sơn phòng đã được nâng cao, mở rộng về quy mô và lực lượng: Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghê An, Thanh Hóa; và Ngãi – Định phía trong cũng vậy (do Nguyễn Thân, Đinh Hội phụ trách).
(Lúc này Nguyễn Thân chưa phản bội).

+++ Tháng mười một âl..
++ Khởi phục cho Lương Quy Chính: Hồng lô tự khanh, sung thương biện Nghệ An.
(sđd., tr. 186).
++ Đặt tuần phủ ở Thái Nguyên, Ninh Bình, Quảng Yên (thống binh Pháp, khâm sứ Pháp bàn).
(sđd., tr. 188 – 189).
Vẫn mềm dẻo với Pháp!
++ Chúc mừng, đáp lễ Tết Tây, Tết ta theo lệ ngoại giao.
(sđd., tr. 189).
++ Cấp tuất và cho nhiêu ấm đối với quan quân thất lạc ở cửa Thuận An (Huế) vào các ngày 15 – 18 âl., Quý mùi (1883).
(sđd., tr. 189 – 190).
+++ Tháng mười hai âl..
++ Tại nha 2 huyện Cam Môn, Cam Cát, ở Hà Tĩnh: đắp thành, cắm chông…
(sđd., tr. 190).
++ Ban ơn cho 4 nhân viên chủng ngừa đậu mùa ở Sứ quán Pháp.
(sđd., tr. 190).
++ Phạm Thận Duật, Hoàng Hữu Thường cùng Lý Mai (Lemaire) định thuế lệ về việc khai mỏ (theo điều 11 “hòa” ước Giáp thân 1884). Hai bên bàn qua bàn lại nhiều lần vẫn không ổn thỏa, rồi bỏ ngang.
(sđd., tr. 190).
++ Hà Văn Quan, tổng đốc Hải – Yên, bị Pháp nghi ngờ có thông đồng với giặc trốn đất Thanh (phỉ Tàu), do chúng nhặt đước thư giả. Lại bị giặc trốn bắt đi, thả về. Rõ là Hà Văn Quan bị kẹt giữa hai kẻ thù, nên phát ốm, xin về kinh chịu tội. Sau đó, thống binh Pháp, khâm sứ Pháp bàn, nên lưu chức.
(sđd., tr. 190 – 191).
++ Đình việc gia phong mĩ tự cho bách thần, vì xét đó chỉ là thói nịnh hót thần linh; chỉ phong tặng cho vị thần nào chưa được phong nhưng linh ứng, sự tích rõ ràng.
(sđd., tr. 191 – 192).
++ Thống binh Pháp dẫn hàng nghìn lính, với nhiều pháo thuyền, từ Hà Nội kéo đến Bắc Ninh, cùng quân Pháp các đồn ở đấy, tiến lên Lạng Sơn, đánh chiếm đồn Điều Vàng, Giản Hoàn của quân Thanh. Quan tỉnh vẫn để mặc cho Pháp và Hoa đánh nhau. Cơ mật viện ra lệnh dụ đã được chuẩn: Lã Xuân Uy và các quan khác về chức cũ.
(sđd., tr. 193).

43) Hàm Nghi năm thứ 1, Ất dậu (1885): 62 tuổi.
+++ Tháng giêng âl..
++ Vẫn được triều Nguyễn và Quốc sử quán triều Nguyễn tôn vinh là chính thống, nên niên hiệu Hàm Nghi vẫn được ghi vào ĐNTL.CB., tập 36 (kỉ đệ ngũ).
(ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 194).
++ Đầu xuân ban ân phong chức, thăng thưởng. Trong danh sách Bộ Lại dâng lên, không có tên thượng thư Bộ Lại Nguyễn Văn Tường.
(sđd., tr. 195 – 196).
Bởi lẽ Nguyễn Văn Tường đã được thăng hàm chức đến bậc cao nhất trong các phẩm trật quan trường. Thái sư là hàm vị cao nhất, thường chỉ để truy tặng cho công thần sau khi đã chết.
++ Tu chỉnh bộ “Dực tông Anh hoàng đế thực lục đệ tứ kỉ” . Nguyễn Thuật tuyên đọc lệnh dụ của vua Hàm Nghi.
(sđd., tr. 196 – 197) (*).
---- (*) Xem ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 57 và lời dụ, ban tâu đầu kỉ, ĐNTL.CB., tập 27, sđd., tr. 5 – 30. ----
++ Nguyễn Thuật: tuần phủ Thanh Hóa.
(sđd., tr. 197).
++ Pháp đến thu thuế thương chính ở Hải phòng Quảng Nam (thuế xuất nhập cảng và thuế thuốc phiện). Do đó, các hạng thuốc súng ở đồn cũ phải thu về tỉnh lị.
(sđd., tr. 197).
++ Khởi phục: nguyên hàm tổng đốc hưu trí Vũ Trọng Bình (một người nổi tiếng thẳng tính và thanh liêm) làm thượng thư Bộ Hộ, sung Cơ mật viện đại thần; và do đó, chuyển đổi thượng thư ở Bộ Hình, điền khuyến ở Bộ Lễ. Nhưng thực dân Pháp không đồng ý (vì Vũ Trọng Bình đã đánh Pháp ở Nam Định, 1883). Vì vậy, Vũ Trọng Bình nhân đó dâng sớ từ chối, lại về hưu. Phạm Thận Duật vẫn làm thượng thư Bộ Hộ. Đặng Đức Địch: Bộ Lễ. Nguyễn Thành Ý: quyền giữ ấn triện Bộ Hình.
(sđd., tr. 197 – 198).
++ Người buôn nhà Thanh lại tung ra tiền giả. Bộ Hộ (Phạm Thận Duật) tâu xin không dùng. Nhưng Thừa Thiên và các tỉnh ở phía nam dùng lẫn lộn quá nhiều, nhất là ở dân nghèo. Đành chuẩn mệnh giá rất thấp: ngang 2 đồng tiền kẽm, để bọn làm tiền giả bất lợi, không đúc tiền giả nữa.
(sđd., tr. 198).
Thêm vào đó bọn gian thương lại chở tiền đồng thật ra nước ngoài!
Trước sự tấn công, phá rối thị trường và đời sống xã hội như vậy, dân gian lại tham lợi nhỏ, quên hại lớn (và cũng vì đồng tiền thật khan hiếm), nên biện pháp đối phó của triều đình (trong đó, Cơ mật viện, phụ chính đại thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Phạm Thận Duật) tỏ ra lúng túng, kém hiệu quả. Cũng xin lưu ý rằng, trong bọn gian thương ấy, có cả người Tây và chắc chắn thực dân Pháp là chủ chốt.

+++ Tháng hai âl..
++ Vua Hàm Nghi ốm, và cũng đã khỏe (suýt phải nhờ thầy thuốc Tây).
(sđd., tr. 198).
++ Tấn phong phụ chính thân thần Hoài Đức quận công Miên Lâm là Lạc quốc công; Hòa Thịnh quận công Miên Tuấn là Thịnh quốc công.
(sđd., tr. 198).
++ Đốc thần Trần Văn Chuẩn tâu xin, chuẩn cho Lương Quy Chính làm tuần phủ Nghệ An (vì việc nhiều, do sự phòng thủ khẩn thiết ở 2 phủ Tương Dương, Quỳ Châu).
(sđd., tr. 198).
++ Bang biện Ti Hành nhân Nguyễn Hoằng tuân lệnh đi Gia Định mua sách Tây: 412 quyển. Chuẩn giao cho Ti ấy dịch để học tập, ứng dụng.
(sđd., tr. 199).
++ Lý Mai (Lemaire) bàn triệt bỏ các cỗ súng trên thành của kinh đô vốn trỏ (chĩa) vào Sứ quán Pháp (bên kia sông Hương). Cơ mật viện, đình thần 2, 3 lần bàn bạc, vẫn không hợp ý thực dân Pháp (chúng vẫn ép buộc), bèn cho triệt (đóng kín cửa châu mai 45 cỗ, và rút các nơi quanh thành về, gom lại [súng ở các vị trí phòng thủ: Nam Xang, Bắc Trung, Trấn Bình đài]).
(sđd., tr. 199).
++ Lưu Cung: thủy sư đề đốc.
(sđd., tr. 199).
++ Năm ngoái, tại Lạng Sơn, thống binh Pháp Mi Lô (Millot) đánh bại quân Thanh. Sau đó, y về Hà Nội. Phái viên Cơ mật viện đem tặng vật đến biếu xã giao. Nay quân Thanh đánh bại quân Pháp cũng tại Lạng Sơn. Phó thống binh Pháp bị thương, lui về Hà Nội. Mi Lô (Millot) cũng đang ở Hà Nội, sắp trở về Pháp. Ta cũng đem tặng phẩm đến. Sinh Bích (Silvestre) không nhận, bắt lẽ, người tặng năm ngoái là đại viên (quan to), năm nay là thuộc viên (quan nhỏ, thuộc cấp). Phạm Thận Duật, Hoàng Hữu Thường đến Sứ quán Pháp tại Huế, nói với Lý Mai (Lemaire), thăm hỏi vui vẻ và biếu tặng (ngoại giao).
(sđd., tr. 199 – 200).
++ Pháp cải tạo, xây thêm thành lũy tỉnh Hải Dương.
(sđd., tr. 200).
++ Thống nhiếp Pháp La Lơ Ri Ê (La Leurier [?]) ngang ngược thu thuế hải quan và thuế thuốc phiện ở Bình Định, lại thu giữ, chở súng ống đạn dược của đồn Hải phòng ở đấy.
(sđd., tr. 200).
++ Đô thống tướng Pháp Cô Ra Xi (Đa La Câu Ra Xuy, De Courcy) thay Mi Lô (Millot). Y thông tư cho khâm sứ ở Huế bàn với triều đình chớ vội thay đổi quan lại Đại Nam ở Bắc Kỳ.
(sđd., tr. 200 – 201).
++ Phụ chính và Bộ Hộ bàn định, cho rằng nhà giàu thường hay tích chứa tiền đồng, tiền kẽm; nay nên đem đến nha môn địa phương đổi lấy bạc theo giá thị trường, vì tiền bị cất trữ, không lưu thông, do đó vật giá vọt cao. Vua Hàm Nghi chuẩn. Nhưng thấy ít người đem tiền đổi bạc (kim loại) nhà nước (có lẽ không tiện dùng vì đồng tiền bằng bạc có mệnh giá lớn)!
(sđd., tr. 201).
++ Cam Môn, Cam Cát là hai huyện miền núi ở Thanh Hóa. Người Tiêm La (Xiêm) đến dò xét, điều tra dân số. Thêm vào, hai thổ dân là Mao (Hà Văn Mao?) và Tú lâu nay thường gây rối (về sau, Hà Văn Mao [?] lại khởi nghĩa chống Pháp?).
(sđd., tr. 201 – 202).
+++ Tháng ba âl..
++ Tấn tôn Từ Dũ thái hoàng thái hậu (vâng theo di chiếu của vua Tự Đức). Ban ân chiếu.
(sđd., tr. 204 – 208).
++ Đúc sách vàng tấn tôn hoàng thái hậu Vũ thị và hoàng thái phi (trước đây là học phi Nguyễn thị).
(sđd., tr. 208).
++ Tướng Pháp Cô Ra Xi (De Courcy) bàn đặt 2 vệ lính tập ở Hà Nội; các tỉnh Bắc Kỳ lần lượt cũng thế. Pháp huấn luyện, ta trả lương để ta điều động. Có thể Pháp có phụ cấp thêm.
(sđd., tr. 208).
(xem lại: sđd., tr. 130 – 131).
++ Đặt trường diễn võ ở các dinh tại kinh.
(sđd., tr. 209).
++ Trương Văn Đễ (thị lang Bộ Binh): thăng thự tham tri Bộ Binh.
(sđd., tr. 209).
++ Phái viên Pháp bắt thự tổng đốc Hà Văn Quan, lại ngang ngược vây dinh thự, cả nơi ở của phó lãnh binh, đoạt các sổ sách, cướp kho tàng. Chúng đem Hà Văn Quan xuống tàu chở vào Gia Định. Cơ mật viện báo cho Lý Mai (Lemaire) biết. Lý Mai (Lemaire) đáp văn thư: Cô Ra Xi (De Courcy) ngờ Hà Văn Quan thông đồng với quân Thanh, còn các thứ cưỡng đoạt ở tỉnh ấy, Pháp sẽ trả lại.
(sđd., tr. 209).
++ Võ Duyệt, Bùi Hanh đi vào Nam, ra Bắc truyền bá phương pháp chủng ngừa đậu mùa.
(sđd., tr. 209).
++ Thị lang quyền tổng lí tổng đốc Hà – Ninh Nguyễn Hữu Độ ngày càng vượt quyền, nịnh hót Pháp và bố trí tay chân, dựa vào Pháp. Do đó, có dụ khiển trách, không nên nghe theo lời Pháp, phải tâu về kinh chờ chỉ; vả lại, tổng đốc 2 tỉnh sao dám vượt quyền bao trùm cả Bắc Kỳ ?!?
Lời dụ còn chỉ rõ, thời gian trước, vì chiến tranh đang diễn ra, triều đình nhân nhượng nên bố trí quan chức phải thông tư cho Pháp biết trước (theo “hòa” ước Quý mùi 1883). Nay “hòa” ước đã đổi, hãy căn cứ vào “hòa” ước 1884. Nếu Pháp tự tiện, thì đừng dự vào.
Tay chân của Nguyễn Hữu Độ là Hoàng Cao Khải và Nguyễn Huy Lân.
(sđd., tr. 210).
+++ Tháng tư âl..
++ Ân khoa thi hội về văn.
(sđd., tr. 211).
++ Thự tổng đốc An – Tĩnh Trần Văn Chuẩn (người Quảng Bình) mất. Trần Văn Chuẩn được bổ nhiệm, làm việc theo mật dụ (lén làm, “lậu giữ”) rất được sĩ dân ở đấy yêu mến. Vua Hàm Nghi cho cấp tuất, rước đưa lính cữu về quê.
(sđd., tr. 211).
++ Lại cấp ruộng tự điền (để thu hoa lợi, chi cho việc thờ cúng) và ruộng lộc điền (để thêm lộc ngoài lương bổng, nhằm dưỡng liêm, dưỡng thiệm: đủ ăn, khỏi sinh thói tham ô, tránh bị đút lót), cho các công thần.
(sđd., tr. 211 – 212).
++ Dụ định giá tiền giả hồi cuối tháng giêng âl., tháng 2 âl., khi đi vào thực tiễn thị trường xã hội, gây ra sự vọt giá hàng hóa. Do đó, Bộ Hộ đã được chuẩn cho việc ra thông tư tham khảo ý kiến các tỉnh, từ Nghệ vào Bình Thuận (Bắc Kỳ chưa lưu hành tiền đồng, chỉ dùng tiền kẽm). Nay Cơ mật viện tập hợp các ý kiến, vận dụng nguyên lí tiền tệ bấy giờ (mệnh giá = giá vật liệu kim loại [đồng hay kẽm] + công thợ + nhiên liệu để đúc) nhằm điều chỉnh dụ trước. Quyết nghị: Tiền đồng thật = 6 đồng tiền kẽm; tiền đồng giả = 3 đồng tiền kẽm. Kèm với quyết nghị ấy là biện pháp hình luật. Tức là dùng biện pháp kinh tế để khắc phục, loại trừ sự phá rối về tài chánh, đi đôi với biện pháp trừng phạt bằng hình án.
(sđd., tr. 212 – 213).
++ Nguyễn Hữu Độ, tổng đốc Hà – Ninh (quyền lí), đã xây sinh từ (đền thờ người còn sống mà có sự nghiệp, công lao to lớn)! Quan Khoa đạo Bùi Hữu Tạo tâu hặc. Nguyễn Hữu Độ dâng tập tâu xin lỗi, cho rằng nhân dân Hà Nội tự nguyện quyên góp xây sinh từ để thờ sống y, vì yêu quý y (!). Bùi Hữu Tạo tâu: Thực ra, là do sự nịnh hót của Hoàng Cao Khải và Trương Văn Hậu; hai tên quan này cưỡng bức thân hào phủ huyện để moi tiền xây sinh từ ấy. Có lệnh dụ phải điều tra. Hai quan bố chính, án sát Hà Nội – Bắc Ninh là Lê Đĩnh, Cao Xuân Dục tâu: Do tên thứ dân (thường dân) Võ Văn Hoạt xướng làm; Võ Văn Hoạt tự khai nhận. Hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cho rằng: Võ Văn Hoạt chỉ là người thường dân bị làm vật hi sinh, chịu tội thay cho bọn nịnh hót và tự sùng bái. Và vụ việc chưa xét xử được, còn dở dang, thì xảy ra cuộc Kinh đô quật khởi và thất thủ!
(sđd., tr. 213 – 214).
++ Tham Bô (De Champeaux) đến thay, Lý Mai (Lemaire) về nước. Tham Bô (De Champeaux) gửi văn thư: Pháp và Hoa đã kí kết hiệp ước giảng hòa ở Yên Kinh (Trung Hoa), vào ngày 28-4 âl., Ất dậu (1885) vừa rồi (*). Tham Bô (De Champeaux) còn thông tư: Khâm sai nhà Thanh đã đi khắp các tỉnh biên giới Đại Nam để hiểu thị, rút quân Thanh về nước. Đồng thời, y đề nghị triều đình nước ta nghị xử bố chánh sứ Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp, người đã cầm quân đánh Pháp ở Hưng Hóa – Tuyên Quang. Triều đình đồng ý “chiếu lệ”, qua loa. Không biết Nguyễn Văn Giáp ở đâu!
(sđd., tr. 214 – 215).
---- (*) Trước đây là “tạm ước Phuốc Ni Ê [Fournier]” (xem lại sđd., tr. 127, tr. 174); nay là “hiệp ước Thiên Tân” chính thức. Đó là chưa kể “Quy ước đình chiến tại Ba Lê (Paris)” [19-2 âl., Ất dậu = 04-04-1885]. ----
+++ Tháng năm âl. (*).
---- (*) Từ đây, người biên soạn (Trần Xuân An) sẽ lược ghi tất cả các chi tiết, cho dù nhỏ nhất, vì đây là thời điểm hệ trọng: Bước ngoặt lịch sử. ----
++ Trần Văn Chuẩn mất, nay Trần Lưu Huệ thay: thự tuần phủ, lãnh tổng đốc, tại Nghệ An.
(sđd., tr. 216).
++ Thự Hình bộ tả tham tri Nguyễn Thành Ý ốm, xin về nghỉ: hưu trí.
(sđd., tr. 216).
++ Đô thống tướng Pháp kiêm quản quân binh Nam – Bắc Kỳ sung toàn quyền đại thần (chỉ huy cả khâm sứ ở Huế): Cô Ra Xi (De Courcy). Cô Ra Xi (De Courcy) khi mới đến Bắc Kỳ, đã gửi ngay văn thư cho Tham Bô (De Champeaux). Nay y lại đem một số lớn binh thuyền đến Thuận An (Huế). Vua Hàm Nghi cho hộ tiếp y đến Sứ quán Pháp tại kinh đô nước ta.
(sđd., tr. 216).
++ Ngày mùng 5 tháng 5 âl., Tết Đoan ngọ.
(sđd., tr. 216).
++ Viện – Bạc tâu: Xin gửi thư sang quốc trưởng Pháp. Trước hết, gửi thư thăm dò qua Tham Bô (De Champeaux), nhờ y chuyển. Nội dung thư chính thức sẽ cho sú bộ mang đi, trực tiếp gửi quốc trưởng Pháp:
1. Pháp không thực hiện đúng “hòa” ước Giáp thân 1884.
2. Một số điều khoản ở “hòa” ước Giáp thân 1884 là không thể chịu được; đề nghị sửa đổi.
Còn thư gửi trước, qua Tham Bô (De Champeaux), chỉ là lời lẽ xã giao (tình giao hảo, hòa nghị lâu dài). Ngay văn thư này cũng đóng ấn, niêm phong trước mặt vua Hàm Nghi. (Nhưng, rồi sau… Pháp không trả lời).
(sđd., tr. 217).
++ Tiết Thiên thu.
(sđd., tr. 218).
++ Thi điện. Hồ Văn Hiển: giám thí; Phạm Thận Duật, Hoàng Hữu Thường: độc quyển; Vũ Tử Văn, Đỗ Huy Liệu: duyệt quyển.
(Chưa kịp truyền lô, gặp Kinh đô quật khởi và thất thủ).
(sđd., tr. 218).
++ Tiết Khánh thọ.
(sđd., tr. 218).
++ Đặt đề đốc ở cửa biển Bình Định. Quan lãnh binh Lê Viết Diễn: thự phó đề đốc lãnh chức đề đốc.
(sđd., tr. 218).
++ Chuẩn bị cho Lễ Đại tường, Lễ Chu cơ.
(sđd., tr. 218 – 219).
++ Tổ chức, tạo lập Nha Dinh điền Quảng Trị. Vua Hàm Nghi mới chuẩn y, chưa kịp tiến hành.
(sđd., tr. 219).
++ Ngày Ất mão, 23 tháng 5 âl., Ất dậu (05-7-1885). “Tôn Thất Thuyết kèm vua, vâng mệnh tam cung; ngự giá chạy ra Miền Bắc” (nguyên văn câu tiểu đề) (*), do cuộc Kinh đô quật khởi thất bại.
---- (*) Sự phân công cho Tôn Thất Thuyết (cơ mật viện tâu xin, được tam cung (gồm 3 vị: thái hoàng thái hậu Từ Dũ, hoàng thái hậu Vũ thị [Trung phi], hoàng thái phi Nguyễn thị [Học phi]) chuẩn y: Tôn Thất Thuyết “vâng mệnh” . ----
1. Trước đó, Cô Ra Xi (De Courcy) đến Sứ quán, xin dâng quốc thư, làm lễ chầu yết. Y yêu cầu Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết sang Sứ quán Pháp (bên kia sông Hương) để hội thương trước.
2. Tôn Thất Thuyết thác bệnh, không đi. Nhưng Nguyễn Văn Tường và Phạm Thật Duật không thể tránh việc được, do đó, cùng đi, qua gặp Cô Ra Xi (De Courcy). Y cố mời cho bằng được Tôn Thất Thuyết, không chịu việc Tôn Thất Thuyết cáo bệnh! Tôn Thất Thuyết biết có việc không hay xảy ra, nên cho quân Phấn Nghĩa bảo vệ mình, đồng thời ra nghiêm lệnh cho quân lính các doanh vệ khác cùng chuẩn bị khí giới. Nguyễn Văn Tường và đình thần cho rằng đó cũng là thanh thế để đấu tranh với Pháp, buộc Pháp phải chùn tay và để tăng cường phòng bị.
3. “Cuộc Nghĩa cử” (nguyên văn): Kinh đô quật khởi, khuya 22 rạng ngày 23 tháng 5 âl., Ất dậu (khuya 04 rạng ngày 05-07-1885) nổ ra.

Hết phần 2 của CHƯƠNG TÁM
Xin xem tiếp PHẦN 3 chương tám
ở tệp 10, cũng trên web-blog này:
http://tranxuanantsbnnvt2.blogspot.com/


Xem thêm: khảo luận “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05-7-1885” ở website:
http://tranxuananp-trphu.blogspot.com/

Xếp chữ xong phần 2 chương tám, vào lúc 20 giờ 25 phút,
ngày thứ năm (thứ sáu cũ) 17-02 HB6 ( 2006 )
[20 tháng giêng, Bính tuất HB6 ]
tại Tp. HCM., Việt Nam.

Trần Xuân An

0 Comments:

Post a Comment

<< Home