TRAN XUAN AN - TIEU SU BN. PCDT. NGUYEN VAN TUONG [ 2 ]

Cuốn sách này, tác giả biên soạn để làm sách dẫn, phục vụ việc nghiên cứu "Đại Nam thực lục chính biên" (IV, V, VI); đồng thời, đây cũng chính là đề cương chi tiết của bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử của tác giả: "Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886)" (Nxb. Văn Nghệ TP. HCM., 2004). Trần Xuân An.

14.2.06

TIỂU SỬ BIÊN NIÊN PCĐT. NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tệp 7)


TRẦN XUÂN AN
(biên soạn)

TIỂU SỬ BIÊN NIÊN
KÌ VĨ PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)
“kẻ thù lớn nhất
của chủ nghĩa thực dân Pháp”

(tiếp theo)
(Tệp 7)
(chương bảy)


G. CHƯƠNG BẢY

XVII. THỜI LÀM ĐỒNG PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN, VẪN ĐẢM NHIỆM VÀ KIÊM QUẢN CÁC CHỨC VỤ CŨ: THƯỢNG THƯ BỘ HỘ, ĐẠI THẦN VIỆN CƠ MẬT – THƯƠNG BẠC, ĐẠI THẦN KIÊM QUẢN CỤC THUYỀN CHÍNH (HÀM & TƯỚC: THÁI TỬ THÁI PHÓ, THỰ VĂN MINH ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ, KÌ VĨ BÁ)


++ Tự Đức làm sẵn di chiếu và di chúc (*). Ngày 14 tháng 6 âl., Quý mùi (1883), Tự Đức triệu 3 Cơ mật viện đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết vào cùng chứng kiến chính tay nhà vua phê vào tờ di chiếu: Ưng Chân nối ngôi; Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết làm phụ chính và đồng phụ chính đại thần; Hoàng Tá Viêm: trấn Bắc đại tướng quân (lo việc bình Tây, định Bắc)…
(ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 198 – 202).
---- (*) Xin xem toàn văn di chiếu và di chúc của Tự Đức trong ĐNTL.CB., tập 35, sđd., số trang đã ghi trên. ----
++ Ngày 16 tháng 6 âl., Tự Đức mất vào giờ thìn (7 – 8 giờ sáng), tại điện chính Kiền [:Càn] Thành. Di chiếu được mở ở điện Cần Chính, trước bá quan. Ưng Chân khóc lạy, nhận mệnh vào điện Hoàng Phúc cư tang. Ngay sau đó, Ưng Chân lên ngôi, lấy niên hiệu là Dục Đức; nhưng làm vua chỉ được 3 ngày, liền bị truất phế (*).
(sđd., tr. 202).
---- (*) Ưng Chân (Dục Đức) bị truất phế vì có chính kiến thân Pháp, thân tả đạo Thiên Chúa giáo, bê trễ phê duyệt các tập tâu về việc quân khẩn cấp, và vì bản thân vi phạm những quy chế về cung cấm [cho “người lạ” vào ra], vi phạm những điển lệ về tang khó… ----
++ Ngày mậu thìn, 20 tháng 6 âl., Dục Đức (Ưng Chân) bi truất phế (*).
Ưng Chân thường bị lầm lỗi, do đó hay bị vua Tự Đức quở phạt. Vua Tự Đức lại rất yêu mến Ưng Đăng (hoàng tử thứ ba). Nguyễn Văn Tường cũng kì vọng ở hoàng tử thứ ba, cho rằng Ưng Chân (Dục Đức) không có đủ đức độ để làm vua. Còn hoàng tử thứ hai (Ưng Kỹ) lại có quá nhiều thói xấu và tâm địa không tốt. Di chúc của vua Tự Đức đã khẳng định rõ như thế. Tôn Thất Thuyết cũng không bằng lòng về việc Ưng Chân nối ngôi vua. Tôn Thất Thuyết cũng nhận thấy không thể lập Ưng Chân hay Ưng Kỹ, nhưng Ưng Đăng lại còn bé (14 tuổi). Tự Đức truyền ngôi cho Ưng Chân (Dục Đức) chỉ vì một điều là Ưng Chân đã lớn tuổi (30 tuổi), mặc dù xác định: Ưng Chân có tính hiếu dâm; sợ sau sẽ mù; tâm tính rất không tốt; e rằng khó đảm đương nổi việc lớn (di chiếu, sđd., tr. 199)! Nay, mới một hôm cư tang, Dục Đức (Ưng Chân) đã phạm những lỗi lầm nghiêm trọng:
1. Vi phạm thứ nhất: Đem vào điện Hoàng Phúc, sở Quang Minh nhiều người riêng (**), cấp thẻ bài để nhưng kẻ ấy được tự do, tùy tiện ra vào;
2. Vi phạm thứ hai: Bê trễ việc phê duyệt các tờ tâu khẩn cấp của các quân thứ;
3. Vi phạm thứ ba: Cúng vua Tự Đức mới chết lại mặc áo sắc lục cũ (không mặc áo tang!); lại sai chế ngay các đồ dùng, quần áo riêng (để trang sức!) – trái với điển lệ.
4. Vi phạm thứ tư: Dục Đức muốn cắt bỏ một đoạn trong di chiếu của vua Tự Đức.
Vi phạm thứ tư đó, cụ thể như sau:
Nguyễn Văn Tường phàn nàn với Tôn Thất Thuyết về những vi phạm của Ưng Chân. Tôn Thất Thuyết cũng hiểu ẩn ý của Tự Đức trong di chiếu: Theo sự đánh giá của vua Tự Đức, chỉ Ưng Đăng mới xứng làm vua, nhưng chỉ tiếc là còn quá bé. Vậy thì, vì tiền đồ đất nước và vì sự tự chủ của triều Nguyễn, nên đặt một người khác lên làm thay, tốt hơn là vẫn đưa Dục Đức (Ưng Chân) lên ngôi vua. Tôn Thất Thuyết cũng đã có ý truất phế Dục Đức, nhưng vẫn chưa thực hiện được sự truất phế ấy. Bấy giờ, Dục Đức lại phạm thêm một lỗi lầm mà luật pháp của vương triều không thể tha thứ được.
Việc cắt bỏ một đoạn di chiếu này, Dục Đức có hỏi ý kiến của ba vị phụ chính đại thần. Trần Tiễn Thành đồng ý. Trong khi đó, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết xin nhà vua mới lên ngôi tự quyết định. Ai cũng biết rằng, tự cắt bỏ di chiếu của vua tiền nhiệm là đã vi phạm pháp luật, tự kết án tử hình. Trước khi vua Tự Đức qua đời, ba vị đại thần đã xin vua cắt bỏ, nhưng vua Tự Đức không đồng ý. Nay Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm sao dám thuận ý với Dục Đức và Trần Tiễn Thành, trong khi di chiếu đã mở ra ở điện Cần Chánh!
Do đó, khi tuyên đọc, Trần Tiễn Thành rất khôn, không bỏ hẳn đoạn ấy không đọc, mà chỉ “đọc hàm hồ” (nguyên văn), đọc nhỏ giọng để không ai nghe rõ, hiểu đúng, như một cách xuyên tạc, cắt bỏ đoạn di chiếu ấy. Sự thể đó liền bị Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tố cáo trước triều thần.
Ngay tức khắc Tôn Thất Thuyết ra lệnh bắt hết bọn tay chân của Dục Đức, gông cùm lại. Tất cả gồm 14 tên.
Lúc họp hoàng thân và các quan ở Tả vu, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phân tích rõ tội lỗi của Dục Đức, xin lập vua khác. Trần Tiễn Thành can. Tôn Thất Thuyết trừng mắt, bảo Trần Tiễn Thành đã phạm pháp (đọc xuyên tạc di chiếu), đừng can ngăn nữa. Phan Đình Phùng (với chức năng ngự sử [phản biện]) cũng tiến lên, ngăn việc phế lập, bảo rằng Dục Đức lẽ ra phải được khuyên can; chưa thấy khuyên can gì đã vội phế truất và lập người khác làm vua! Phan Đình Phùng bị Tôn Thất Thuyết ra lệnh cho quân lính trói ngay. Và cuối cùng, mọi người đồng ý xin ý chỉ của Từ Dũ (mẹ của vua Tự Đức). Từ Dũ để tùy hoàng thân, phụ chính đại thần, đình thần chọn lựa người nối ngôi.
Nguyễn Văn Tường muốn theo sự đánh giá có ngầm ý chọn lựa của vua Tự Đức: chọn Ưng Đăng. Ưng Đăng đã là hoàng tử, 14 tuổi, không còn quá bé nữa. Tôn Thất Thuyết lại đi vận động cho Hồng Dật. Và Nguyễn Trọng Hợp cùng các đình thần khác được Tôn Thất Thuyết mớm ý, để sẽ đề xuất và ủng hộ Hồng Dật. Nguyễn Văn Tường cũng thuận theo ý Tôn Thất Thuyết trong việc chọn người nối theo tôn miếu nhà Nguyễn, vì Tôn Thất Thuyết thuộc huyết thống tôn thất và cũng vì Hồng Dật đã 36 tuổi (di chiếu cũng nói rõ là đất nước hiện thời cần vua lớn tuổi). Do đó, Hồng Dật lên ngôi làm vua, lấy hiệu là Hiệp Hòa. Từ Dũ đồng ý, ban ý chỉ.
(sđd., tr. 205 – 209) (***).
(xem thêm: sđd., tr. 231)
---- (*) Xem nguyên văn ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 205 – 209.
(**) Theo một số tư liệu (Aldophe Delvaux, tập san “Những người bạn cố đô Huế” [Bulletin des amis du vieux Hué], số 1, 1941), trong những kẻ này, có cả một linh mục tả đạo Thiên Chúa giáo: Nguyễn Hữu Cư (tức Thơ). ĐNTL.CB, ghi nhận là linh mục làm thương biện, thông ngôn này sau đó vẫn được triều đình sử dụng ở Ti Hành nhân, trụ sở đóng ngoài kinh thành Huế.
(***) Sự kiện phế lập này bị Quốc sử quán viết với cách diễn đạt đậm màu sắc bảo hoàng, chủ “hòa”. (Và có lẽ một phần khác, phải chăng do Tổ Phiên dịch Viện Sử học đã dịch theo định kiến hình thành từ thời thực dân phong kiến, nên khi đọc, người đọc cảm thấy bị phản cảm?). Người biên soạn (Trần Xuân An) xin gột tẩy màu sắc hạn chế ấy, nhưng vẫn giữ đúng y nguyên tình tiết của sự kiện, để bảo lưu sự thật lịch sử. Tất nhiên, xin hiểu rõ: màu sắc bảo hoàng, chủ “hòa” thể hiện không những ở cách dùng từ với sắc thái phản cảm rõ rệt, mà còn ở các tình tiết “suy diễn” của Quốc sử quán triều Nguyễn từ sự kiện ấy, như khía cạnh tâm lí chẳng hạn (dễ võ đóan hoặc xuyên tạc). Xin phân biệt suy luận có lí với suy diễn phi lí hoặc có ác ý. Và xin hiểu đúng: Nguyễn Văn Tường “không yên tâm” (nguyên văn) – “không yên tâm” cho vương triều Nguyễn và Đất nước, nhân dân –, khi Ưng Chân được Tự Đức truyền ngôi, vì ông vốn khinh thường tư cách đạo đức của Ưng Chân, mà kì vọng ở Ưng Đăng, một hoàng tử tuy còn nhỏ tuổi (14 tuổi) nhưng sớm thông minh, có hạnh kiểm tốt đẹp. Và Tôn Thất Thuyết cũng “không bằng lòng” (nguyên văn) về Ưng Chân (Dục Đức), một vị vua mà có tư cách đạo đức như vậy. Đó là chưa kể đến điều chủ yếu: quan điểm chính trị của Ưng Chân! Xin đối chiếu với nguyên văn ĐNTL.CB.. Đối chiếu là cách tốt nhất để kiểm chứng sự sai biệt giữa văn bản vốn được xem là chuẩn cứ với cách hiểu, cách diễn đạt của người biên soạn (TXA.). Trong tinh thần khách quan khoa học, xin thưa như vậy. ----

______________________

Phụ lục 1 của chương bảy:
Nguyên văn
Vụ truất phế Dục Đức, tháng 6 Quý mùi (tháng 7.1883) trong ĐNTL.CB. , tập 35, sđd., số tr. đd. như sau:
“[Tiểu đề:] Quý mùi, năm Tự Dức thứ 36 (1883), tháng 6, ngày mậu thìn, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết bỏ vua nối ngôi, lập em út vua là Lãng quốc công Hồng Dật.
[Thuyết:] Trước đây, vua mới mất đi chọn nuôi hoàng tử, cùng trước sau nuôi ở trong cung 2 công tử nữa là hoàng tử thứ 2, hoàng tử thứ 3. Vua cho là hoàng tử thứ 3, tuổi còn bé, hầu hạ cẩn thận, biết sợ, rất yêu. Mà về hoàng trưởng tử thì dạy bảo càng nghiêm, thường vì lầm lỗi bị quở. Văn Tường nghĩ hoàng trưởng tử tất không được lập lên làm vua mới khinh thường hoàng trưởng tử [về tư cách đạo đức, quan điểm chính trị – TXA. ct.] mà chỉ để tâm đến hoàng tử thứ 3. Đến nay tờ chiếu để lại cho nối ngôi lại là hoàng trưởng tử, Văn Tường trong lòng không được yên, Thuyết cũng không bằng lòng với tự quân.
Gặp khi tự quân ở điện Hoàng Phúc đem nhiều người riêng vào hầu hộ vệ ở điện Hoàng Phúc và các sở Quang Minh, (đều sai chế bài cấp cho đeo), bọn ấy nhân đó ra vào tự do; các tờ tâu khẩn cấp của các quân thứ các tỉnh tâu lên, có khi để ở trong điện một đêm, vẫn chưa giao ra. Lại trong khi làm lễ điện (cúng vua mới chết) vẫn mặc áo sắc lục cũ, hoặc sai chế ngay các đồ dùng riêng (các thứ quần áo đồ dùng).
Văn Tường bảo kín Thuyết rằng: “Tiên đế đã bảo vua nối ngôi chưa chắc đương nổi việc lớn, lại giao cho ngôi lớn. Nay bắt đầu, cử động đã như thế, huống chi là ngày sau ư? Đó là việc lo riêng cho chúng ta”. Thuyết vốn tính cương trực lại cậy quyền cầm quân liền mật đáp rằng: “Cứ như lời chiếu thì mưu tính là vì xã tắc, bất đắc dĩ mà làm việc nhỏ như Y Doãn, Hoắc Quang (*), cũng là chí của tiên đế”; nhân thế cũng có ý mưu bỏ [phế Dục Đức – TXA. ct.] đi.
Sau rồi vua nối ngôi lại nghĩ trong tờ di chiếu răn bảo có những câu không tốt, không thể truyền bá cho mọi người nghe; triệu các phụ chính đại thần, cần bớt một đoạn ấy đi, không tuyên lục ra. Trần Tiễn Thành bảo thế cũng ổn, 2 người đều thưa rằng: “Xin nhà vua quyết định”; vua nối ngôi tin là cùng bằng lòng, bèn sai sao tờ di chiếu, tự tay xóa bỏ đoạn ấy đi; dặn Trần Tiễn Thành nhớ mà làm. 2 người ra bàn kín với nhau rằng: được rồi; mưu ấy bèn nhất định.
Đến lúc tuyên đọc tờ chiếu, Văn Tường cáo ốm không đứng trong ban chầu, Thuyết đứng vào bên Trần Tiễn Thành. Tiễn Thành đọc đến đoạn ấy, đọc nhỏ hàm hồ không rõ. Văn Tường ở chái bên đông, làm ra vẻ quái lạ, nói rằng: “Vua nối ngôi sao được giấu bớt di chiếu của tiên đế? Bậy bạ không gì to hơn nữa; còn có thể nối theo tôn miếu xã tắc được ư?”.
Tuyên đọc xong, hai người hỏi vặn Tiễn Thành; Tiễn Thành biết là bị chúng đánh lừa, nói chữa rằng: “Có phải không đọc đâu, nhưng lão phu có bệnh ho, đọc đến đây hết hơi tiếng nhỏ mà thôi”. Thuyết chứng tỏ là không phải, cho là càn bậy, cũng như lời của Văn Tường nói; rồi nhân phái quân túc vệ canh gác trong ngoài cung thành rất nghiêm (bắt hết cả người riêng của vua nối ngôi là bọn Nguyễn Như Khuê, hơn 10 người, giao cho đem gông cùm lại). Họp hoàng thân và các quan ở Tả vu, 2 người tuyên bố về việc tội lỗi của vua nối ngôi, xin bỏ đi, lập vua khác. Tiễn Thành muốn can ngăn, Thuyết trừng mắt nhìn, nói rằng ông cũng có tội to, còn nói gì.
Trong khoa đạo có chưởng ấn là Phan Đình Phùng [**] tiến lên nói rằng: “Vua nối ngôi nếu có lỗi, chưa thấy can ngăn, đã vội bàn như thế; việc bỏ vua, dựng vua là việc to, lại dễ dàng quá thế”. Thuyết quát lên, sai tả hữu đem Đình Phùng trói để ở trại quân Cẩm y, bảo đợi để nghiêm trị. (Lúc bấy giờ, 4, 5 người theo sau Đình Phùng nghe Thuyết thét trói Đình Phùng tức đều lui tan), cho nên Tiễn Thành và hoàng thân, các quan không ai dám trái; rồi cùng ký tên tâu xin ý chỉ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu truất bỏ đi.
Sai người đưa vua nối ngôi về chỗ cũ là Dục Đức đường, canh phòng rất kĩ.
Khi mật bàn người được lập, Văn Tường để ý đến hoàng tử thứ 3 mà Thuyết thì cho là hoàng đệ Lãng quốc công có tư chất thông minh, vốn quen biết sẵn, để ý đến Lãng quốc công. Văn Tường tính là không tranh nổi, cũng theo lời ấy, rồi đem ý xin lập vua nhiều tuổi tâu trước với cung Gia Thọ (tức là Từ Dụ thái hoàng thái hậu) để lãnh chỉ. Được ý chỉ truyền rằng: “Hiện nay trong thì lo về vua mới mất, ngoài thì có giặc ngoại xâm, người ít tuổi thực không đương nổi, nhưng thân này già cả, sao biết được, phần nhiều nhờ Tôn nhân, phụ chính, đình thần, cùng nhau chọn các hoàng đệ, ai nên lập thì lập lên làm vua”.
Thuyết bèn đến phòng Cơ mật bảo bọn thượng thư Nguyễn Trọng Hợp, thị lang Lâm Hoành, Trần Thúc Nhận [Nhẫn – TXA. ct.], Hoàng Hữu Thường, thị vệ đại thần Tôn Thất Thái rằng: “Ngày nay phi tìm vua nhiều tuổi cho xã tắc, không ai hơn Lãng quốc công; các ông nên phải nói”.
Lúc bấy giờ bên ngoài nghe tin cấp báo đương gấp, chợt có biến bên trong, đều không ai biết làm thế nào; đến khi hội bàn ở Tả vu, Văn Tường và Thuyết hỏi trước các thân phiên, hoàng thân thì đều nói rằng: “Tuy cũng ở trong tôn thống, nhưng ngày thường mỗi người ở riêng một nhà, không biết rõ được; xin 3 đại thần cùng đình thần liệu bàn”. Tường, Thuyết lại hỏi; đình thần nói ngày nay việc không thể hoãn được. Trọng Hợp bèn nói trong các hoàng đệ có Lãng quốc công, vốn khen là người có học, được tiên đế cho sung chức Tôn đài; nay hiện việc như thế, chưa biết Lãng quốc công có đương nổi không? Lãng quốc công đứng dậy khóc nói rằng: “Tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, thực vạn vạn phần không dám nhận”. Văn Tường và Thuyết đều nói rằng: “Đấy thực là phúc của xã tắc, xin đừng từ chối”; bèn cùng các quan kí tên tâu xin ý chỉ của thái hoàng thái hậu, lập Lãng quốc công làm vua”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 205 – 209).
---- (*) Y Doãn đuổi vua là Thái Giáp ra ở Đông cung 3 năm, sau lại đón về cho làm vua. Hoắc Quang làm tướng, bỏ vua là Xương Ấp vương, lập Hán Tuyên đế làm vua (xem Bắc sử) [chú thích của Viện Sử học]. ----
Mấy trang phụ lục này, cũng như những trang phụ lục khác ở các mục kế tiếp, vốn được người biên soạn (Trần Xuân An) tuyển chọn cho cuốn “Nguyễn Văn Tường, ‘những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được’”, khảo luận – phê bình sử học, đã đăng trên Tạp chí điện tử Giao Điểm số tháng 5-2005:

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_nvt_phulucI.htm

______________________

++ Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết giao Phan Đình Phùng cho Bộ Hình nghị xử: cách chức, trả về quê (không tước học vị tiến sĩ) vì đã bênh vực một người cố ý phạm pháp, mặc dù người ấy là vua nối ngôi (Dục Đức).
(sđd., tr. 210).
Thật ra, với chức năng ngự sử (Đô sát viện), thường để can ngăn vua hoặc phản biện với các quan trong các cuộc thiết triều, Phan Đình Phùng đã lên tiếng trong cuộc phế truất Dục Đức. Không lâu về sau, ông được phục chức và phục vụ ở Sơn phòng Hà Tĩnh, trong kế hoạch kháng chiến của hai vị đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết. Xin xem: ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 184 – 185. TXA.
++ Tuần phủ Quảng Nam Đặng Đức Địch tâu xin tăng cường phòng thủ. Cơ mật viện cho rằng thành trì tỉnh ấy xa đường sông; và đánh Pháp, chống giữ trước sự tấn công của Pháp không thể cậy vào đồn lũy (súng đạn Pháp công phá rất mạnh) mà phải dùng chiến thuật khác (du kích, mai phục…).
(sđd., tr. 210).
++ Giam bọn Nguyễn Như Khuê, tay chân của Dục Đức, gồm 14 tên. Sau đó nghị xử: Chỉ một Nguyễn Như Khuê bị tội chém, nhưng được hoãn; số còn lại bị hình phạt nặng, nhẹ khác nhau (*).
(sđd., tr. 210).
---- (*) Xem lại chú thích (**) ở vụ phế truất Dục Đức: Aldophe Delvaux, tập san “Những người bạn cố đô Huế” [Bulletin des amis du vieux Hué], số 1, 1941, về linh mục tả đạo Thiên Chúa giáo: Nguyễn Hữu Cư (Thơ). ----
++ Phó đề đốc Bắc Ninh Trần Xuân Soạn, thương biện Thanh Hóa Trương Văn Đễ về kinh đô nhận chức.
(sđd., tr. 210).
++ Đưa quân Ngãi – Định và Nghệ về kinh đô.
(sđd., tr. 210 – 211).
++ Lê Sỹ: phó sứ Hải phòng kinh kì.
(sđd., tr. 211).

XVIII. THỜI LÀM PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN, ĐẠI THẦN VIỆN CƠ MẬT – THƯƠNG BẠC, LÃNH THƯỢNG THƯ BỘ HỘ (THÁI TỬ THÁI PHÓ, THỰ VĂN MINH ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ, KÌ VĨ HẦU TƯỚC)

++ Theo thông lệ nhà vua nối ngôi đăng quang, một loạt hoàng thân, quan chức được tấn phong, thăng thưởng. Trong đó, Trần Tiễn Thành: thái bảo, Cần Chánh điện đại học sĩ; Nguyễn Văn Tường: Văn Minh điện đại học sĩ, Kì Vĩ hầu (thời Tự Đức, Nguyễn Văn Tường đã là thái tử thái phó…); Tôn Thất Thuyết: điện tiền tướng quân, hiệp biện đại học sĩ, Vệ Chính bá tước… Nguyễn Khuyến (tam nguyên Yên Đổ): quang lộc tự khanh; Đào Tiến [Đào Tấn, nhà viết tuồng]: thực thụ hồng lô tự khanh… Trần Nhượng: tuần phủ…
(sđd., tr. 211 – 213).
++ Quan Cơ mật viện tâu: Xin ra lệnh cho các quân thứ thừa thắng đánh quân Pháp, đừng để chúng có thì giờ mưu tính việc khác.
(sđd., tr. 213 – 214).
Cơ mật viện lúc này vẫn còn 3 người: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Tuy vậy, Trần Tiễn Thành đã hoàn toàn lép vế trước hai đại thần chủ chiến.
++ Lưu Vĩnh Phúc: Nghĩa Lương nam tước.
(sđd., tr. 214).
++ Nguyễn Chính, Vũ Trọng Bình bị gọi về kinh đô chịu tội, theo quân luật (vì để thất thủ thành Nam Định).
(sđd., tr. 214).
++ Quan Cơ mật viện tâu:
“Ta cùng với nước Pháp, mạnh yếu khác nhau, cho nên trước thì 3 tỉnh, sau rồi 6 tỉnh Nam Kỳ đã bị chúng chiếm cứ. Vừa rồi, đến Bắc Kỳ lấy 4 tỉnh rồi lại trả liền, nay lại lấy Nam Định, Hà Nội mà chiếm cứ. Hoà ước rõ ràng, mà chúng dám coi thường như thế, thì hoà ước cũng không đủ cậy. Ta đã chịu khuất, không dám tranh đua sức mạnh, mà chúng cũng chưa từng thương kẻ yếu. Tuy thông sang Vân Nam, là nguyện vọng của chúng, nhưng việc mượn đường chưa chắc là thực cả. (Vừa rồi nghe tin nhật báo: nói muốn đến Thuận An bắt hiếp phải hoà) ; đấy là do một vài kẻ [thực dân – TXA. ct.] cầu công, nguyên không phải do [Quốc hội – TXA. ct.] nước ấy cùng bàn, mà ta chỉ lần chần nhát yếu, không dám làm gì, dần dần đến cái thế không thể làm được. Nay nhờ tiên đế đưa thư cho nước Thanh nói rõ nghĩa lớn, Lý Hồng Chương trù lượng phái quân sang, làm thanh thế cứu ứng ở xa, cho nên chúng chưa thể nuốt được. Nhưng hiện nay thế thành ra cưỡi hổ, tên đã ở cung, nếu không đánh tan sào huyệt, thì chúng có thì giờ mưu tính, không những yêu sách nhiều cách; Lý Hồng Chương ngại về điều đình, mà [quân Pháp – TXA. ct.] đến cửa Thuận An bắt hiếp phải hoà, ta cũng khó giành được phần thắng.
Xin lại giáng dụ nghiêm sức các quan quân thứ chia quân tiến đánh, cho chúng nhọc về phòng bị, không có thì giờ mưu tính việc khác, thì ta mới giữ vững để đợi nước Thanh xử trí”
(nguyên văn).
Vua Hiệp Hòa chỉ tạm nghe theo.
(sđd., tr. 214 – 215).
++ Hồng Sâm đi rước thầy thuốc Quảng Đông (Trung Hoa) qua chữa bệnh cho vua Tự Đức đã về.
(sđd., tr. 215).
++ Dời tỉnh thành Hải Dương (vì gần sông).
(sđd., tr. 215).
+++ Tháng bảy âl..
++ Bàn lễ tấn tôn Trung phi Vũ thị là Khiêm hoàng hậu (mẹ nuôi Ưng Chân [Dục Đức]) và Thụy tần Trương thị (mẹ ruột Hiệp Hòa) là hoàng thái phi. Đồng thời, tấn tôn Từ Dũ (mẹ vua Tự Đức) là thái hoàng thái hậu. Trung phi Vũ thị tự trách mình không giáo dục được Ưng Chân (Dục Đức).
(sđd., tr. 216 – 217).
(xem thêm: tập 35, sđd., tr. 220, tr. 246; tập 36 , sđd., tr. 38 – 39).
Chính vua Hiệp Hòa đề xuất tấn tôn cho mẹ ruột, và việc này trở thành lệ, nên về sau đã tấn tôn cho Học phi (mẹ nuôi Kiến Phúc, từ lúc Kiến Phúc còn là Ưng Đăng, mới 2 tuổi).
++ Mật dụ cho Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản: Phải đánh ngay, đừng để Pháp có thì giờ xin cứu viện; hẹn trong một tháng phải san bằng các sở thương chính tại Hà Nội, Nam Định, nơi Pháp đóng, vì quân ta đã đông, thế trận đã thành. Hiệp Hòa cho là thực hiện theo lời tiên đế Tự Đức.
(sđd., tr. 217 – 218).
(xem lại: sđd., tr. 197).
++ Sứ bộ Lã Xuân Oai, Nguyễn Khuyến (tam nguyên Yên Đổ, nhà thơ) sang Trung Hoa. Sau đó, sứ bộ đi đường biển, nên tuần phủ Lạng – Bằng Lã Xuân Oai có lệnh khỏi đi. (Và rồi… Nguyễn Khuyến không không đi nữa, vì Hiệp Hòa đã cho kí “hòa” ước 1883).
(sđd., tr. 219).
++ Pháp thu thuế cửa khẩu ở Hà Nội, không cho ta biên sao, biên nhận như trước (theo cưỡng ước thương mại Giáp tuất 1874). Nguyễn Hữu Độ tâu vào triều. Viện – Bạc tâu xin gửi thư cho tướng Pháp ở Gia Định về vấn đề đó.
(sđd., tr. 219).
++ Một người thường dân say rượu, nói liên tu bất tận về việc phế lập tự tiện, nhiều câu bất kính. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tâu xin trảm quyết bêu đầu tại chỗ. Hiệp Hòa cho trảm giam hậu (chém nhưng tạm giam chờ xét). Về sau, Hiệp Hòa bị truất bỏ, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lại tha cho người ấy.
(sđd., tr. 219).
Điều đó nói lên rằng, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã biết sửa sai: lập hoàng tử của vua Tự Đức, ấy là Ưng Đăng. Ngoài ra, còn thấy rõ, ngay việc xử tử một người thường dân bất kính, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cũng phải tâu xin, không hề tự tiện, chuyên quyền chút nào.
++ Lãnh sự Pháp ở Bình Định đã ra đi, đóng cửa trụ sở. Nay lại đến, hỏi về thuế!
(sđd., tr. 220 – 221).
++ Nguyễn Thành Ý được dụ cùng hành nhân (thông dịch viên) Nguyễn [Hữu] Cư (tức linh mục Thơ) đến cửa Thuận An (Huế) để chờ Hà A Mang ([Harmand], toàn quyền đại thần Pháp).
(sđd., tr. 221).
++ Tàu Pháp đến cửa Thuận (Huế), cho thuyền nhỏ vào đo nước. Cơ mật viện – Thương bạc tâu: Phải đánh ngay, nếu Pháp vào quá 3, 4 chiếc. Vua Hiệp Hòa: Chỉ nên canh giữ, không nên gây hiềm khích, “nếu không biết cơ nghi, hiểu lí thế thì không được” (nguyên văn).
(sđd., tr. 222).
++ Tăng số lính tại ban, luyện tập phòng thủ. Điều số vũ sinh 4 trực tỉnh (Thiên, Nam, Bình, Trị) về kinh đô, để huấn luyện.
(sđd., tr. 222).
++ 13 chiếc tàu binh Pháp đỗ ở Đồn thủy Hà Nội; làm hào lũy, ổ súng. Quan tỉnh vẽ bản đồ dâng về triều đình.
(sđd., tr. 223).
++ 6 chiếc tàu binh Pháp từ Bắc Kỳ chạy vào Quảng Nam. Quan Cơ mật viện tâu: Xin thông tư cho Sơn Tây, Bắc Ninh đánh tàu thủy Pháp ngay, kẻo chúng mưu tính chỗ khác, sức quân ta bị chia ra. Tàu Pháp lại đến Quảng Nam rất nhiều. Vua Hiệp Hòa đồng ý đánh.
(sđd., tr. 223).
Thật tâm Hiệp Hòa chỉ cầu “hòa” mà thôi!
++ Vua Hiệp Hòa sai Nguyễn Văn Sỹ đem cờ lệnh, ngự bài tùy nghi làm việc cho Tôn Thất Thuyết ở cửa Thuận An (Huế), nhưng dặn dò: “Nếu không hòa được, cũng tòng quyền làm kế hoãn binh” (nguyên văn); nếu hiếu thắng, sẽ bị trách cứ rất nặng.
(sđd., tr. 223).
++ Tàu Pháp vào cửa Thuận An (Huế), đưa chiến thư. Nguyễn Thành Ý giảng thuyết. Pháp không chịu, kiếm cớ để quyết đánh. Nguyễn Thành Ý đã bị Pháp trục xuất khỏi Gia Định; Pháp cho rằng, nay không thể nói chuyện với nhau được. Trần Thúc Nhẫn, Phạm Như Xương thay Nguyễn Thành Ý. Nhưng Pháp đã tấn công. Chúng bắn phá suốt 3 ngày, lại cho quân đi thuyền nhỏ vào cửa Thai Dương (Thuận An, Thừa Thiên), luồn ra sau quân ta để đánh úp. Trương Văn Đễ thua, phải chạy. Lê Sỹ, Lâm Hoành, Lê Chuẩn, Nguyễn Trung đều chết trận. Trần Thúc Nhẫn tự vẫn. Cửa Thuận An, cửa ngõ của kinh đô Huế, đã mất vào tay giặc Pháp xâm lược, trong ngày 18 tháng 7 âl., Quý mùi (1883).
(sđd., tr. 223 – 224).
++ Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Trọng Hợp đến ngay thành Trấn Hải (cửa Thuận) bàn “hòa”; cũng theo lệnh dụ: treo cờ trắng đầu hàng (ở các đồn từ Lộ Châu lên đến kinh thành), nhưng vẫn phòng thủ nghiêm mật.
(sđd., tr. 224).
++ Tỉnh Hải Dương: thành mới, thành cũ đều mất hết. Do đó, lại càng phải cầu “hòa”!
(sđd., tr. 224).
++ Chu Đình Kế: kiểm đốc đài Trấn Bình (Mang Cá) ở kinh thành Huế.
(sđd., tr. 224).
++ Hà A Mang (Hà Truất Mang, Harmand, khâm sai Bắc Kỳ toàn quyền đại thần Pháp) đưa chiêu “hòa” thư. Trần Đình Túc (hưu trí) và Nguyễn Trọng Hợp (sung Cơ mật viện đại thần) đến Sứ quán Pháp tại Huế để bàn định “hòa” ước.
(sđd., tr. 224 – 225).
Đại thần Cơ mật viện – Thương bạc lúc này: Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Trọng Hợp.
++ Quốc tử giám: sinh viên tình nguyện sung quân quyết chiến. Vua can ngăn.
(sđd., tr. 225).
++ Tham biện đồn Hòa Quân (Hòa Duân) Ông Ích Khiêm rút quân lên Huế. Quân vừa đi vừa đánh trống phản đối, bất mãn, ê chề, và với tâm trạng phá tán. Vua trách, ra lệnh giao quân cho Tôn Thất Thuyết.
(sđd., tr. 225).
Đúng là tướng nào quân nấy! Quyết chiến, hăng hái và hơi… vô kỉ luật (“vô lễ”!). So sánh với các danh tướng cùng thời, sẽ thấy rõ cả ưu lẫn nhược điểm của Ông Ích Khiêm.
++ Hiệp Hòa bổ nhiệm người thân của phi tần theo kiểu thiên vị.
(sđd., tr. 225).
++ Rút biền binh các đồn từ Lộ Châu lên đến Huế; chuyển súng đi.
(sđd., tr. 225).
++ Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp xin bố trí Hoàng Hữu Thường sung làm tham biện định “hòa” ước. Sau đó, Trần Đình Túc lại về hưu, chỉ một mình Nguyễn Trọng Hợp bàn định các điều khoản quá nhục nhã của “hòa” ước Quý mùi 1883 (*).
(sđd., tr. 225).
---- (*) Bắc Kỳ hoàn toàn bị “bảo hộ” (quan lại do Pháp chọn đặt); quân Pháp đóng từ Đèo Ngang trở ra; Bình Thuận hoàn toàn thành thuộc địa của Pháp như Nam Kỳ lục tỉnh; khâm sứ Pháp có thể gặp vua bất kì lúc nào và vua đều phải tiếp… ----
++ Quân thứ Sơn Tây đánh tan quân Pháp ở Hương Canh, Phù Diễn. Pháp rất muốn báo thù cho Vi E (Lý Ba Lợi, Henry Rivière). Chúng chiêu mộ thêm quân người Hoa, dân Thiên Chúa giáo. Pháp tấn công phủ Hoài Đức, huyện Đan Phượng rất dữ dội. Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc cùng tướng Thanh Đường Cảnh Tùng phối hợp quân, 4 mặt tiếp ứng. Hai bên giao chiến từ giờ mão (5 – 7 giờ sáng) đến giờ dậu ( 17 – 19 giờ tối). Pháp thua, bỏ chạy.
Bấy giờ, Hải Dương đã thất thủ (sđd., tr. 232 – 233). Hiệp Hòa nghe tin thắng trận ở Hương Canh, Phù Diễn cũng không vui mừng. Ý kiến Viện Cơ mật và ngay cả Bộ Binh (của Tôn Thất Thuyết): Cố nhiên phải khen thưởng, nhưng tình hình đã khác; sẽ nghĩ định sau!
(sđd., tr. 225 – 226).
++ Tham Bô (Sâm Bô, De Champeaux) lại đến Huế làm khâm sứ.
(sđd., tr. 226).
++ Quân ở cửa Tư Hiền (Thừa Thiên) phải rút về kinh đô.
(sđd., tr. 226).
++ Thượng thư Bộ Công Trần Văn Chuẩn: Thương bạc đại thần (kiêm sung).
(sđd., tr. 226).
++ Báo tình hình Pháp ức hiếp phải “hòa” cho tổng đốc Lưỡng Quảng (Trung Hoa) và Lý Hồng Chương.
(sđd., tr. 226).
++ Vua Hiệp Hòa dụ bảo các quân thứ Bắc Kỳ: Triều đình đã kí “hòa” ước Quý mùi 1883. Trong đó, có nhiều khoản không chịu được, nhưng đành phải chấp nhận. Nay triệt bãi quan quân các quân thứ Bắc Kỳ; chấp nhận quan chức do Pháp chọn, đặt ở ngoài đó.
(sđd., tr. 226 – 227).
Như vậy, Hiệp Hòa đã hoàn toàn đầu hàng, thực hiện “hòa” ước Hà A mang (Harmand) – Nguyễn Trọng Hợp (*) khá triệt để!
---- (*) Theo lệ thường, các nhà nghiên cứu gọi đây là “điều ước Harmand – Trần Đình Túc”. Xem vài dòng ghi chú, lược chép ở mục tháng này, phía trước, sđd. tr. 225. ----

++ Bộ Hộ (Nguyễn Văn Tường) xin tạm cải cách việc thu thuế vì bấy giờ lắm sự tệ hại xảy ra.
(sđd., tr. 228).
++ Sắp đưa quan tài vua Tự Đức đi an táng tại Khiêm lăng; chuẩn bị các nghi lễ.
(sđd., tr. 228 – 229).
+++ Tháng tám âl..
++ Rước quan tài Tự Đức.
(sđd., tr. 229).
++ Pháp vào huyện An Dương (Hải Dương), bức tri huyện Trần Đôn. Trần Đôn trầm mình.
(sđd., tr. 229).
++ Dụ cấm lời đồn bậy (giả “hòa” rồi lại đánh nhau; vấn đề lương, giáo dọa nạt nhau) khiến nhiều người gống gánh tản cư…, đặc biệt ở Thừa Thiên (nhất là tại Quốc tử giám), Quảng Trị, Quảng Bình. Thật ra, đó là dư luận xôn xao trước tình thế và tinh thần quyết chiến của sinh viên. Phủ doãn, tỉnh thần chỉ im lặng, không trấn áp dư luận.
(sđd., tr. 229 – 230).
++ Hồng Phì: tả tham tri Bộ Lại.
(sđd., tr. 230).
++ Quan Khoa đạo (ngự sử Đô sát viện) Hoàng Côn, Đặng Trần Hanh tâu hặc Trần Tiễn Thành về việc Dục Đức cắt bỏ di chiếu (sao lục ra, tự tay xóa bỏ; bản chính còn nguyên vẹn thủ bút Tự Đức) và Trần Tiễn Thành còn “đọc hàm hồ không rõ” (nguyên văn) đoạn ấy. Hiệp Hòa căn cứ vào tờ tâu thú tội của Trần Tiễn Thành, đưa ra nhận định: 3 đại thần Cơ mật viện (Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết) đã xin vua Tự Đức bỏ đoạn kể về tính hiếu dâm, tâm tính xấu, tật bệnh về mắt và nguy cơ “không đảm đương nổi việc lớn” của Dục Đức, vua Tự Đức không đồng ý (*). Các quan lại cho rằng, hẳn Trần Tiễn Thành đã gợi ý cho Dục Đức. Đình thần nghị xử: Cách chức, phạt trượng. Hiệp Hòa chỉ chuẩn cho giáng 2 cấp, lưu dụng.
(sđd., tr. 231).
---- (*) Theo bài viết của Đào Duy Anh (cháu rể của Trần Tiễn Thành) trong NNBCĐH. (BAVH., 1944) về Trần Tiễn Thành (xem bản dịch của Bùi Trần Phượng, trong cuốn “Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành”, Nguyễn Đắc Xuân biên soạn, sđd., tr. 13 – 87): Tờ tâu của Trần Tiễn Thành viết rõ là Nguyễn Văn Tường cho rằng, chiếu lập vua nối ngôi và kể tội Dục Đức như thế, e rằng không hợp lắm, xin bỏ bớt đoạn ấy đi. Trần Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết đều đồng ý, cùng làm sớ xin vua Tự Đức cắt bỏ. Tự Đức vẫn không đồng ý bỏ bớt đoạn di chiếu ấy (sđd., tr. 71). Xem nguyên văn tờ tâu của Trần Tiễn Thành ở sđd.. ----
_________________

Phụ lục 2 của chương bảy:
Nguyên văn
đoạn viết về việc 3 đại thần đã xin vua Tự Đức bỏ bớt đoạn răn bảo Dục Đức, Tự Dức không đồng ý; nay xét xử tội “truyền tả chế thư sai lầm” của Trần Tiễn Thành, tháng 8 Quý mùi (tháng 9.1883); trích trong ĐNTL.CB. , tập 35, Nxb. KHXH.,1976, tr. 231, như sau:
“Khoa đạo là Hoàng Côn, Đặng Trần Hanh tâu nói: “Hôm trước ở Tả vu điện Cần Chánh, cứ viên đồng phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết nói rõ, là có một đoạn trong di chiếu của tiên đế răn bảo vua nguyên nối ngôi, vì vua nguyên nối ngôi sao lục ra đã bỏ bớt đi, đại thần Trần Tiễn Thành tuyên đọc cùng bỏ đoạn ấy đi, có phần không phải”.
Trẫm xét: “Ngày tiên đế ngồi tựa ghế ngọc, các phụ chính đại thần đã xin bớt đoạn ấy đi. Tiên đế không nghe, đủ biết là tiên đế nghĩ việc phó thác tôn miếu, xã tắc là việc trọng đại, lo sâu nghĩ xa, cho nên nói khẩn thiết như thế. Đại thần được dự nghe mệnh lệnh dặn lại, phải nên trên thể theo ý của tiên đế mà tuyên bố cho mọi người nghe, lại coi như bỏ rơi; trước đã xin bớt mà không được, nay lại tự bỏ đi mà không đọc”.
Tôi cho là: “Vua nguyên nối ngôi bỏ bớt lời di chiếu, chưa chắc đã không phải tự viên đại thần ấy dẫn đường ra trước. Vậy xin giao cho đình thần bàn xét để nghiêm kỷ cương”.
Vua giao cho đình thần bàn, mọi người đều xin chiểu luật “truyền tả chế thư sai lầm” mà xử tội trượng, cách chức.
Vua cho là đời xưa thời bình chính giản, cũng còn dùng người cũ, nữa là ngày nay thời khó khăn, việc nhiều, há nên đem viên đại thần 4 triều, lầm một cái mà không dung thứ ư? Đổi làm giáng 2 cấp, lưu [dụng – TXA. ct.]”.

___________________

++ Tàu binh Pháp bắn ở cửa biển Y Bích (Thanh Hóa), rồi bỏ đi.
(sđd., tr. 231).
++ Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết tâu xin đem vấn đề phạm pháp (phạm quy chế cung cấm, đưa người tùy tiện vào; bê trễ việc quân khẩn cấp; bất hiếu, không để tang, tính chuyện trang sức ngay; cắt bỏ di chiếu) của Dục Đức cho Phủ Tôn nhân, đình thần nghị xử. Quyết nghị: Ưng Chân (Dục Đức) vẫn được ở nhà cũ là Dục Đức đường; chỉ còn là công tử; bị quản chế tại nhà; được chu cấp các khoản chi tiêu. Theo đình thần: Xử Dục Đức như vậy cho vẹn cả ân tình lẫn pháp luật. Vua Hiệp Hòa không đồng ý, giao cho Cơ mật viện – Thương bạc xét lại bản án và hình phạt. Cơ mật viện – Thương bạc xét nghị xong, vua Hiệp Hòa vẫn không bằng lòng, và vua lại tự ý xử nặng hơn: Chuyển Dục Đức đến giảng đường Viện Thái y…
(sđd., tr. 231 – 232).
++ Tường thuật lại vụ thất thủ thành cũ, thành mới tỉnh Hải Dương: 10 tháng 7 âl., Quý mùi (1883), giặc Pháp chiếm thành cũ, treo cờ “tam tài” (cờ nước Pháp). Pháp lại đánh phá thành mới. Lê Điều (tổng đốc, trước đây thay Phạm Phú Thứ, từ đó đến nay) cho đề đốc đưa quân ra đánh. Quân ta vỡ. Lê Điều cho lui quân, đóng ở Cẩm Giàng, Đường Hào.
(sđd., tr. 232 – 233).
(xem thêm: sđd., tr. 225 – 226 [thành Hải Dương mất]).
++ Ngày bính thìn tháng 8 âl., sắc mặt trời trở nên xanh. Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết dâng sớ xin từ chức phụ chính đại thần, xin vua tự phê bình. Vua xuống dụ, nhắc nhở các quan tự xét mình, xét lại việc vua đã làm. Vua không cho 3 đại thần từ chức.
(sđd., tr. 234).
++ Một lần nữa, vua Hiệp Hòa xuống dụ triệt bãi các quân thứ Bắc Kỳ, và cho rằng “hòa” ước có nhiều khoản nhục nhã, nhưng vạn bất đắc dĩ phải chấp nhận.
(sđd., tr. 234 – 235).
++ Tôn Thất Thuyết xin từ chức thượng thư Bộ Binh, vì có dư luận không thiện cảm. Vua giao cho Cơ mật viện – Thương bạc bàn. Cơ mật viện – Thương bạc tâu: Việc Bộ Binh lâu nay vẫn bị lần lữa (thời Trần Tiễn Thành); hiện thời khó có người thay được Tôn Thất Thuyết…; để tránh lời gièm pha vua tôi ngờ vực nhau, xin đổi bổ làm thượng thư bộ khác. Vua cho là phải. Tôn Thất Thuyết: thượng thư Bộ Lễ; rồi sau khi Nguyễn Trọng Hợp làm khâm sai ra Bắc, tức là khoảng vài ngày sau, Tôn Thất Thuyết lại chuyển làm thương thư Bộ Lại.
(sđd., tr. 235 – 236).
++ Quản đốc Ti Hành nhân Nguyễn Hữu Cư: tham biện Thương bạc.
(sđd., tr. 236).
++ Dụ Bộ Hộ: giảm chi tiêu việc công.
(sđd., tr. 236).
++ Hoàng Tá Viêm, Lưu Vĩnh Phúc và quan binh nước Thanh đánh bại 12 chiếc tàu thủy với 2.000 lính Pháp. Cuộc chiến đấu dữ dội diễn ra trong 3 ngày đêm; kết quả: liên quân bên ta bắn vỡ 3 chiếc tàu Pháp, hạ sát 300 tên giặc.
Hoàng Tá Viêm tâu vào triều đình tin thắng trận, và cũng xin rút binh dõng về Sơn Tây. Đến đó, sẽ xin tâu tiếp. Vua Hiệp Hòa lại dụ triệt bãi ngay, theo “hòa” ước Quý mùi 1883!
(sđd., tr. 236 – 237).
++ Nguyễn Trọng Hợp, Trần Văn Chuẩn, Hồng Phì, Đinh Văn Giản ra Bắc để cùng Pháp bàn việc thực hiện “hòa” ước Quý mùi (1883)!
(sđd., tr. 237).
++ Pháp đem kị binh đi đường bộ đến Nam Chân (Nam Định). Vua dụ: Không khiêu khích chúng; dò xét xem.
(sđd., tr. 238).
++ Bộ Hộ (Nguyễn Văn Tường) và Nha Thuyền chính tâu hặc bọn tham ô.
(sđd., tr. 238).
++ Pháp bắt giam tỉnh thần Hải Dương ở tàu thủy của chúng, buộc làm việc. Vũ Túc (bố chính sứ) bị chúng ép cung khai. Pháp làm nhục Vũ Túc vì Vũ Túc không chịu khai báo. Vũ Túc uất ức chết. Sau đó, nhờ nhóm khâm sai từ Huế ra thương thuyết, Lê Điều, Nguyễn Văn Phong mới được tha (liền cáo ốm, xin nghỉ).
(sđd., tr. 238 – 239).
++ Tổng đốc Hà Nội Vũ Nhự bị điều về kinh đô Huế, vì Pháp căm ghét.
(sđd., tr. 239).
++ Hiệp Hòa lại bổ nhiệm người thân bên ngoại vì tình cảm riêng.
(sđd., tr. 239).
++ Tổng đốc Quảng Đông Tăng Quốc Thuyên gửi thư. Vua Hiệp Hòa cho rằng Tăng Quốc Thuyên cũng sợ Pháp hiềm thù; nay nhà Thanh có giúp ta đánh Pháp, cũng đã muộn mất rồi.
(sđd., tr. 239).
++ Từ tháng 7 âl., Trần Tiễn Thành bị bệnh tê buốt 2 chân, xin miễn vào chầu, chỉ lưu ở công đường làm việc. Nay xin thôi việc hẳn. Vua cho nghỉ.
(sđd., tr. 240) (*).
---- (*) Theo “Đại Nam liệt truyện”, tập 4, sđd., tr. 169 – 170, Trần Tiễn Thành bị bệnh từ đầu năm 1883. ----
+++ Tháng chín âl..
++ Vua Hiệp Hòa rước mẹ ruột (hoàng thái phi) vào cung ở; Hiệp Hòa đã cung tiến tiền, vàng, bạc và vải vóc.
(sđd., tr. 242).
++ Thưởng theo thủ tục ngoại giao cho khâm sứ Tham Bô (De Champeaux), kí lục, thông ngôn.
(sđd., tr. 242).
++ Pháp đào xác Vi Ê (Henry Rivière) đem về.
(sđd., tr. 242).
++ Vua lại dụ các quân thứ, tỉnh thần Bắc Kỳ: “Hòa” ước có một số khoản sẽ đổi; nay vẫn phải triệt bãi quan quân các quân thứ, quan chức các tỉnh huyện về lị sở cũ…
(sđd., tr. 242 – 243).
++ Công sứ Pháp đến Khiêm cung chơi xem. Đó là nơi hoàng hậu Vũ thị cư tang. Không ngăn cản y được.
(sđd., tr. 243).
++ Pháp lên núi Linh Thái đánh dấu. Cơ mật viện – Thương bạc thương thuyết về việc này theo lệnh vua.
(sđd., tr. 243).
++ Đoàn Văn Hội: thượng thư Bộ Công. Đoàn Văn Hội dâng sớ xin từ.
(sđd., tr. 244).
++ Pháp đặt công sứ ở Ninh Bình, Quảng Yên, có những hành vi ngang ngược.
(sđd., tr. 244).
++ Bùi Ân Niên cáo ốm, không đi nhận chức.
(sđd., tr. 245).
++ Giảm 7 phần 10 thuế cửa tuần cho Tuyên Quang.
(sđd., tr. 245).
++ Bộ Hộ tâu: Việc chi lương cho Khiêm Hoàng hậu. Vua: Bàn định lương cho hoàng thái phi và Khiêm hoàng hậu, do Bộ Hộ và Bộ Lễ. Vua gợi ý mức lương (mức của hoàng thái phi còn cao hơn cả mức lương của Khiêm hoàng hậu [lẽ ra là hoàng thái hậu]!).
(sđd., tr. 246).
++ Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Hữu Cư theo sắc dụ đến Sứ quán thông báo cho khâm sứ Pháp biết là tuần phủ Quảng Tây Nghê Văn Úy vừa đưa văn thư, rằng nước Thanh sẽ sai sứ sang phong sắc cho vua Hiệp Hòa. Pháp trịch thượng đòi xem thư báo tang vua Tự Đức và thư nhà Thanh thông báo phong sắc! Cơ mật viện – Thương bạc theo sắc dụ, đành trao cho Pháp xem.
(sđd., tr. 246).
++ Không cho Tạ Hiện về làm đề đốc Thanh Hóa theo lời xin của tỉnh thần, vì sợ Tạ Hiện gây thanh tích (tiếng tăm, dấu vết).
(sđd., tr. 247).
+++ Tháng mười âl..
++ Giặc Pháp ngang ngược bắt hiếp lấy hai thớt voi ở Mỹ Đức (Hà Nội).
(sđd., tr. 247).
++ Công sứ Pháp yêu cầu ta phái lính tỉnh để bắt cướp ở Hải Dương.
(sđd., tr. 248).
++ Pháp trịch thượng làm trụ sở và đòi kiểm tiền, khí giới ở Hưng Yên.
(sđd., tr. 248).
++ Giảm thuế cho Hưng Hóa.
(sđd., tr. 248).
++ Triệt Tôn Thất Hòe, Tạ Hiện về kinh. Tôn Thất Hòe giả ốm, nay bị triệt về. Tạ Hiện xin lưu lại, rồi sau đó nhận ấn đề đốc của quân Thanh để mộ người khởi nghĩa.
(sđd., tr. 248).
Mặc dù mục tiêu đánh Pháp là chính nghĩa, nhưng nhận ấn nhà Thanh (Trung Hoa) là một sai lầm về chính trị, tổn thương đến quốc thể, nhân dân khó lòng hưởng ứng!
++ Bộ Hộ tâu về nạn bão và thóc ướt ở Thanh Hóa.
(sđd., tr. 248).
++ Thân hào Quảng Trị, Thừa Thiên chiêu mộ dân dũng chống Pháp. Vua sai phủ, tỉnh thần hiểu thị.
(sđd., tr. 249).
++ Vua Hiệp Hòa không cho quân Thanh vào thành Bắc Ninh, vì … sợ trái “hòa” ước Quý mùi 1883!
(sđd., tr. 249).
++ Pháp tặng bội tinh và phẩm nghi (bội tinh tặng Trần Đình Túc), theo thông lệ ngoại giao, về việc kí “hòa” ước Quý mùi 1883!
(sđd., tr. 253).
++ Tán tương quân thứ Sơn Tây Nguyễn Thiện Thuật nhận ấn nước Thanh (danh nghĩa quá sai lầm!) để chiêu mộ dân dũng đánh Pháp (mục tiêu chính nghĩa) .
(sđd., tr. 253).
++ Tuy Lý vương Miên Trinh đến Sứ quán Pháp xin thuốc chữa bệnh (!?!). Viện – Bạc tâu hặc việc trái phép đó. Hiệp Hòa cứ cho rằng ông ấy là người yêu nước (!), trung thành, có học, nhưng vẫn trách, bảo lần sau phải có đình thần cùng đi cho hợp lệ.
(sđd., tr. 253 – 254).
++ Bộ Binh tâu về việc huấn luyện quân.
(sđd., tr. 254).
++ Pháp bắt Nguyễn Văn Phong (tuần phủ Hải Dương), Hoàng Vỹ (tuần phủ Quảng yên), vì chúng ngờ hai ông liên lạc với quân thứ Sơn Tây (Hoàng Tá Viêm, Lưu Vĩnh Phúc), và chở vào Gia Định. Pháp lại bắn chết tuần phủ Hưng Yên Nguyễn Văn Thận (chở thuốc súng, lương thực lên Sơn Tây) và bắt cả án sát Vũ Ích Khiêm, nhưng sau đó lại tha án sát này. Vũ liền cáo bệnh, nghỉ.
(sđd., tr. 255).
++ Nguyễn Khắc Vỹ: thự bố chính sứ thăng lãnh tuần phủ Hải Dương; thự tuần phủ Quảng Trị – Quảng Bình Đinh Nho Quang: thự tuần phủ Hưng Yên.
(sđd., tr. 255).
++ Pháp mời Tuy Lý vương Miên Trinh sang sứ quán thương thuyết. Sau đó, Tham Bô (De Champeaux) vào triều yết.
(sđd., tr. 255).
++ Ngày 30 tháng 10 âl., Quý mùi (1883), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất thuyết phế và cho lệnh tử hình Hiệp Hòa, tử hình cả Trần Tiễn Thành. Hai vị phụ chính đại thần cùng hoàng thân, đình thần lập hoàng tử thứ ba Ưng Đăng lên làm vua, lấy niên hiệu là Kiến Phúc (*1).
Hiệp Hòa ghét Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, muốn tước bớt quyền của hai phụ chính này (*2). Bề ngoài vẫn ưu đãi, nhưng bên trong lại tìm cách đè nén: đổi Tôn Thất Thuyết sang Bộ Lại, không cho nắm binh quyền; tờ tâu của 6 bộ, giao Nội các duyệt tâu, không giao cho hai phụ chính. Hiệp Hòa muốn quyền quân sự và quyền chính trị của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết không còn nữa (sđd., tr. 236).
Tham tri Bộ lại Hồng Phì (con trai Tùng Thiện vương Miên Thẩm) và tham biện Nội các Hồng Sâm (con trai Tuy Lý vương Miên Trinh) mật tâu giết hai phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Hiệp Hòa cũng bí mật âm mưu với Hồng Phì, Hồng Sâm. Tuy Lý vương Miên Trinh và con trai là Hồng Tu cũng đồng mưu. Đáng kể nhất, đó là việc Trần Tiễn Thành (*3) đã cùng chủ mưu với các hoàng thân ấy và với vua Hiệp Hòa. Trần Tiễn Thành đêm đêm đến dinh Hồng Phì bàn kín âm mưu, quyết giết Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.
Hiệp Hòa dùng kế li gián, muốn mượn tay Nguyễn Văn Tường giết Tôn Thất Thuyết, lại muốn mượn tay Tôn Thất Thuyết giết Nguyễn Văn Tường. Hai vị phụ chính lại nói rõ với nhau ý đồ đen tối và độc ác của Hiệp Hòa (cũng của nhóm Trần Tiễn Thành, Miên Trinh, Hồng Phì, Hồng Sâm, Hồng Tu). Tham Bô (De Champeaux) vào chầu yết, bàn bạc với Hiệp Hòa về việc “hòa” (thực chất là đầu hàng, làm nô lệ giặc Pháp)… Hai vị phụ chính kiếm cớ, tránh mặt, không dự việc ấy (*4). Hiệp Hòa cho Tuy Lý vương chuyên đi lại Sứ quán Pháp để bàn bạc… Hai vị phụ chính hiểu rõ âm mưu câu kết giữa thực dân Pháp và bè lũ chủ “hòa”, đồng thời biết Hiệp Hòa đem việc lập đội quân hương dũng (*5) của Tôn Thất Thuyết với ý định phản công, truất phế Hiệp Hòa của hai vị ra cầu cứu với Pháp.
Ngày 29 tháng 10 âl., lúc canh hai (19 – 21 giờ khuya), cửa hoàng thành đều đóng kín. Tôn Thất Thuyết thu tất cả chìa khóa, bảo là bên ngoài có kẻ dị dạng (*6) họp, nên cần phải mật phòng, điểm binh (ở bờ nam sông Hương). Trong thành, quân lính đều sẵn sàng khí giới. Ông Ích Khiêm, Trương Văn Đễ dẫn quân đến đóng ở Sở Tịch điền. Sau đó, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cho mời văn võ đình thần (hiện đang ở ngoài hoàng thành) cùng đến họp mặt ở công đường Bộ Hộ (chỗ Nguyễn Văn Tường ở). Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết tố cáo Hiệp Hòa trái phép cũ, mật kết với bọn có âm mưu sâu độc; và xin phế bỏ Hiệp Hòa, lập hoàng tử Ưng Đăng lên làm vua. Sau đó, hai vị làm tờ tâu; chuyển đình thần đến Sở Tịch điền (vắng Đoàn Văn Hội). Tờ tâu đã có chữ kí các quan. Bản thảo tờ tâu cũng được hai phụ chính chủ chiến cho đem đến nhà Trần Tiễn Thành, nhưng Trần Tiễn Thành không đồng ý.
Canh tư (1 – 3 giờ khuya về sáng), Nguyễn Hanh và Lê Đại cùng biền binh lên Khiêm lăng đón rước Ưng Đăng về. Ưng Đăng rất sợ hãi. Về đến nơi, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cùng các quan lạy mừng, xin lập lên làm vua. Ưng Đăng: “Ta còn bé, sợ không làm nổi” . Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết: “Tiên đế đã có ý ấy, nhưng chưa kịp làm (*7). Nay là mệnh trời vậy. Xin nghĩ đến: Tôn miếu, xã tắc là quan trọng” .
Sáng sớm ngày 30 tháng 10 âl. (Quý mùi [1883]), hai vị thông báo cho các quan trực đêm hôm ấy: Hà Văn Quan, Trần Văn Cư, Hồ Lệ, Lê Duy Thụy, Tôn Thất Thạ. Bấy giờ, Đoàn Văn Hội mới đến họp.
Đến lúc khoảng 5, 6 giờ sáng, Hiệp Hòa mới hiểu có sự biến. Chung quanh chỉ còn vài viên thái giám. Hiệp Hòa đành tự phê tờ chiếu nhường ngôi và ngồi đợi.
Đến giờ mùi (13 – 15 giờ chiều), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đón Ưng Đăng vào Viện Cơ mật tạm nghỉ; đem tờ tâu xin bỏ vua Hiệp Hòa và xin lập Ưng Đăng lên làm vua, tâu lên Từ Dũ thái hoàng thái hậu để lấy ý chỉ thi hành. Từ Dũ đã đồng ý với hai vị phụ chính.
Suốt đêm đến sáng, tới lúc này, cửa kinh thành đều đóng kín bốn phía. Hai vị phụ chính bấy giờ mới cho mở cửa Tây Nam (cửa Hữu) để gọi rước các hoàng thân vào. Đến Tả vu, ai cũng im lặng, nhìn nhau, không nói lời nào.
Miên Trinh, Hồng Tu, Hồng Sâm chạy xuống Thuận An, vào tàu thủy Pháp cầu cứu, ẩn nấp. Miên Triệu (Hoằng Hóa công), Miên Tằng (Hải Ninh quận công) cũng đều xuống ở đó. (Hồng Phì ở Bắc Kỳ về, đến Quảng Trị, nghe tin, cũng thuê thuyền về Thuận An, vào ở trong tàu thủy Pháp).
Bấy giờ, Hiệp Hòa mới biết âm mưu câu kết với Pháp, để hoàn toàn chịu “bảo hộ” và để giết hai vị phụ chính chủ chiến, đã bại lộ, đành sai thái giám Trần Đạt đem tờ chiếu nhường ngôi đến chỗ Ưng Đăng và hai vị phụ chính. Hai vị phụ chính vờ chấp nhận yêu cầu, cho Hiệp Hòa về lại phủ cũ ở xã Phú Xuân. Tôn Thất Thạ đưa Hiệp Hòa về, cùng với phi tần, nội cung, bằng võng lọng. Ông Ích Khiêm và Trương Văn Đễ đã được dặn trước, đón ở cửa Hiển Nhân, sai lính đưa Hiệp Hòa vào Nha Hộ thành (Dục Đức đường cũ), rồi cho uống thuốc độc, giết đi (tức là thi hành án theo lệ tam ban triều điển). Lúc này các phi tần đã về trước, chỉ một mình Hiệp Hòa bị đón lõng.
Ông Ích Khiêm, Trương Văn Đễ dâng thuốc độc cho Hiệp Hòa, Hiệp Hòa không chịu uống. Trương Văn Đễ khóc, lạy và nói: “Vua tôi đến lúc biến, không thể làm thế nào được” . Hiệp Hòa nói: “Ta lại không được bằng Thụy quốc công à?” . Ý nói, xin được xử như Dục Đức, hiện đang được ở tại giảng đường Viện Thái y. Hiệp Hòa vẫn không chịu uống. Ông Ích Khiêm đem nước chè có pha thuốc độc ấy đổ vào miệng Hiệp Hòa. Hiệp Hòa luội người, xanh tái hẳn, như trúng gió. Một lúc khá lâu sau đó, Trần Xuân Soạn chạy ra bảo, nếu chậm quá sẽ bị tội nặng. Và Trần Xuân Soạn bóp cổ Hiệp Hòa đến khi tắt thở.
Ông Ích Khiêm, Trương Văn Đễ vào báo tin đã hành quyết xong Hiệp Hòa. Hai vị phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đón rước hoàng tử Ưng Đăng vào điện Hoàng Phúc, đợi chọn ngày tốt, tôn lên làm vua.
Cũng vào đêm 29 tháng 10 âl. ấy, hai vị phụ chính đã cho mang bản thảo tờ tâu (sẽ kính đệ trình lên Từ Dũ để xin truất bỏ Hiệp Hòa, lập Ưng Đăng làm vua), đưa cho Trần Tiễn Thành, dặn bảo Trần Tiễn Thành nên thuận theo, nhưng Trần Tiễn Thành không đồng ý. Đêm hôm sau, Trần Tiễn Thành liền bị giết chết tại nhà riêng, ở ấp Doanh Thị Trung. Cái chết của Trần Tiễn Thành, trước hết là do chính Trần Tiễn Thành đã âm mưu cùng nhóm Hồng Phì và vua Hiệp Hòa, câu kết với De Champeaux (*8), để chịu chấp nhận đất nước bị giặc Pháp “bảo hộ”, và để giết Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết. Hai vị phụ chính này từ lâu đã biết rõ lòng dạ sâu độc của Trần Tiễn Thành, nên buộc Trần Tiễn Thành phải nghỉ ở nhà, không được đến làm việc ở Viện Cơ mật nữa. Việc Trần Tiễn Thành cáo ốm xin nghỉ chỉ là cái cớ bên ngoài đưa ra trước công luận mà thôi. Và cái chết của Trần Tiễn Thành lại được Phủ Thừa Thiên cho là do bọn cướp giết. Phủ Thừa Thiên ghi vào biên bản với nội dung như thế, mặc dù mọi người đều cho rằng chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đã ra lệnh giết chết Trần Tiễn Thành (*9).
Về Hồng Phì, Hồng Tu, Hồng Sâm… Sau đó, Pháp đã đành phải giao trả những hoàng thân này cho triều đình. Cả 3 đều bị thi hành án tử hình.
(sđd., tr. 255 – 260).
---- (*1) Xin xem nguyên văn ĐNTL.CB. ở phần phụ lục 3 của chương bảy này.
(*2) Nguyên nhân của việc Hiệp Hòa ghét bỏ Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 255 ghi là do hai vị: “Tường, Thuyết cậy công tôn lập lên, việc gì cũng chuyên quyền làm bậy”. Nhưng đọc kĩ, không thấy cậy công lúc nào, làm bậy việc gì! Chẳng lẽ tinh thần chủ chiến là “bậy”?!? (xem lại: sđd., tr. 205 – 260). Điều thấy rõ là các bản dụ, kể cả mật dụ, của Hiệp Hòa ở 1, 2 tháng đầu sau khi lên ngôi, đậm tinh thần quyết chiến, là do ảnh hưởng bởi Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết.
(*3) Trần Tiễn Thành, từ 1881, cách thời điểm này 2 năm, đã đồng ý với De Champeaux trong việc tác động lên vua Tự Đức để Nguyễn Văn Tường rời khỏi chức vụ đại thần quản lí Thương bạc sự vụ, mặc dù đó là một chức vụ mà Nguyễn Văn Tường đã hai lần từ khước. (Xem lại: Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH.TU. Tp. HCM. xb., sđd., 1993, tr. 270: Lời dẫn của Y. Tsuboi trước khi trích phúc trình của De Champeaux, gửi thống đốc Nam Kỳ, từ Huế, 06.02.1881 [mùng tám Tết Nguyên đán Tân tị], AOM. Aix, Amiraux 12923).
(*4) Quốc sử quán triều Nguyễn chỉ hé ra một chi tiết này để nói lên rằng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết không chấp nhận “hòa” ước Quý mùi 1883.
(*5) Phấn nghĩa quân (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 63 – 64).
(*6) Bọn ăn mặc khác thường.
(*7) Xin xem lại di chiếu, di chúc của Tự Đức. Tự Đức muốn lập Ưng Đăng (về sau là Kiến Phúc), nên phê phán Ưng Chân (Dục Đức) và Ưng Kỹ (về sau là Đồng Khánh) ngay trong di chiếu và di chúc… Nhưng dẫu sao, Dục Đức và Hiệp Hòa (Hồng Dật) cũng đáng tội phải phế truất, còn Ưng Kỹ, hạnh kiểm xấu đến thế, thì không thể lập làm vua được! Xem thêm: ĐNTL.CB., sđd., tr. 19 – 20.
(*8) Tư liệu về nhóm chủ “hòa”, câu kết với Pháp, đứng đầu là Trần Tiễn Thành, Tuy Lý vương, Hiệp Hòa: Năm Canh thìn (1880) và Tân tị (1881), Trần Tiễn Thành đã câu kết với De Champaux (AOM. Aix, Amiraux 12923, dẫn theo Yoshiharu Tsuboi, NĐNĐDVP. & TH., UB. KHXH.TU. Tp. HCM. xb., sđd., 1993, tr. 270); Xem lại mục tháng giêng âl. Tự Đức năm thứ 34, Tân tị (1881); Cao Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân Pháp tại Việt Nam (1857 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp, bản dịch ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973, tr. 31 (bức điện tín trên được lưu trữ tại Thư khố Bộ Hải ngoại Pháp, mang kí hiệu thư khố: A 30 (58), hộp 16): “Theo một điện tín của thống đốc Nam Kỳ gửi bộ trưởng Hải quân ngày 10 tháng 12 năm 1883, Hiệp Hoà bày tỏ trong mọi lúc cảm tình của ông ta đối với Pháp. Ông đã bí mật phái chú là Tuy Lý vương đến Toà sứ Pháp để hỏi De Champeaux là, nếu trong trường hợp có biến động, ông có được Pháp giúp đỡ không? De Champeaux trả lời có, và nhiệt thành khuyến khích ông chống lại cận thần. Cuộc viếng thăm này làm triều đình lo ngại, họ làm đủ mọi cách để biết nội dung câu chuyện nhưng vô ích”.
(*9) Đó chỉ là ghi nhận của Quốc sử quán triều Nguyễn về việc Phủ Thừa Thiên lập biên bản và về dư luận của mọi người lúc ấy (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 259 – 260). Chúng tôi (người biên soạn [TXA.]) xét nghĩ rằng, Trần Tiễn Thành bị giết không phải do lệnh Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết mà do sự nghĩa phẫn của hoàng thân và sĩ phu. Hai vị phụ chính đã ra lệnh thi hành án Hiệp Hòa (hoàng đế), thì còn ngại gì lại không dám công khai thi hành án Trần Tiễn Thành? Ở ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 68: “bị cướp giết chết” (nguyên văn). Tuy nhiên, ở tập 37, sđd., tr. 136: “giết vua, giết quan” (nguyên văn)
.
______________________

Phụ lục 3 của chương bảy:
Nguyên văn trong ĐNTL.CB.
, tập 35, Nxb. KHXH., 1976, tr. 255 – 260: Vụ phế truất, thi hành án vua Hiệp Hoà cùng Trần Tiễn Thành và những kẻ đồng mưu câu kết với thực dân Pháp, tháng 10 Quý mùi (tháng 11.1883), như sau:
“[Tiểu đề:] Ngày đinh sửu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết phế vua và giết đi, và giết cả đại thần Trần Tiễn Thành; lập hoàng tử thứ 3 lên làm vua.
[Thuyết:] Trước đây, phế đế đã nối ngôi, Tường, Thuyết cậy công tôn lập lên, việc gì cũng chuyên quyền làm bậy [chủ chiến là làm bậy?!? – TXA. ct.]. Vua ghét hai người ấy, muốn tước bớt quyền đi. Cho nên ngoài mặt vẫn hậu đãi, mà trong ức chế cũng nhiều, (như việc đổi Thuyết sang Bộ Lại, không cho giữ binh quyền; lại tờ tâu của 6 bộ, đều giao cho Nội các duyệt tâu, không chuyên giao cho hai người ấy). Gặp khi những người thân tín của vua là tham tri Bộ Lại Hồng Phì, tham biện Nội các Hồng Sâm mật mưu việc ấy; Tuy Lý vương Miên Trinh, huyện công Hồng Tu đều có dự mưu (Hồng Tu, Hồng Sâm đều là con Tuy Lý vương). Tường, Thuyết đã biết việc ấy. Vua lại muốn dùng mẹo để 2 người giết nhau. Triệu Văn Tường vào nói chuyện, thì bảo Văn Tường là người trung thành, vẫn rất tin cậy; còn Thuyết rất là ngang ngược, dặn Văn Tường tìm cách bỏ Thuyết đi. Thuyết vào hầu, vua cũng nói thế. Hai người lại ra, đều đem lời nói ấy mật bảo nhau; nhân mưu việc bỏ vua mà lập vua khác.
Thuyết bèn lấy cớ là Thuận An sau khi thất thủ, phủ hạt Thừa Thiên nên tự tìm cách bảo vệ gia hương, phát hổ phù (*) ra mật sai mộ nhiều hương dũng (nhưng sai người thân tín là Kỳ nội hầu Hồng Chuyên, phò mã Đặng Huy Cát chia nhau cai quản) để phòng sai khiến. Người ngoài chưa ai biết cả. Gần đây phái viên nước Pháp nhân hoà nghị đến xin chầu yết, hai người kiếm cớ tránh mặt, không dự việc ấy. Vua lại đặc cách sai Tuy Lý vương chuyên đi lại sứ quán bàn bạc. 2 người ngờ vua đem mưu ấy dặn Tuy Lý vương cầu cứu với người Pháp. Bèn vào ngày bính tí là ngày 29 tháng ấy [**], lúc canh hai, các cửa hoàng thành, kinh thành đã đóng kín, Thuyết thu hết cả chìa khoá cửa. Bèn trước nói dối là đêm ấy nghe nói ngoài thành có bọn bậy bạ họp kẻ dị dạng, xin tự kiểm biền binh, mật phòng bị sẵn, biên ra giao cho quan trực hầu tâu lên. Rồi ngoài thì phát ra hổ phù, sai họp tất cả [quân] mộ dũng ở bờ phía nam sông Hương; trong thì đòi gọi các quân đều mang khí giới, do các viên Ông Ích Khiêm, Trương Văn Đễ đi trước, dẫn đến đóng ở Sở Tịch điền. Cho mời văn võ đình thần người nào hiện ở ngoài hoàng thành cũng đến công đường Bộ Hộ (chỗ Văn Tường ở). Hai người bảo rằng: “Lãng quốc công nối ngôi đến nay, làm việc phần nhiều trái phép cũ, lại gần gũi người bậy (ngầm chỉ bọn Hồng Phì, Hồng Sâm, Hồng Tu), người đều không phục. Nay nên xin bỏ đi, đón hoàng tử thứ 3 lên nối nghiệp lớn”. Lúc bấy giờ các quan đều vốn sợ uy lệnh của 2 người ấy, không ai dám nói điều gì khác. 2 người bèn một mặt dự làm tờ tâu, một mặt đem văn võ đình thần chuyển đến Sở Tịch điền, (duy có thượng thư Bộ Công là Đoàn Văn Hội cáo ốm không đến); sai đem tờ tâu lấy chữ các quan kí tên. Lúc bấy giờ đã trống canh tư. Bèn sai Hậu quân là Nguyễn Hanh, thị lang Bộ Binh là Lê Đại, trích phái biền binh đi đến nhà Dưỡng Thiện ở Khiêm lăng, (hoàng tử thứ 3 nguyên ở Dưỡng Thiện đường, ở bên hữu nhà Duyệt Thị gần đấy; rước linh cữu tiên đế để ở điện Hòa Khiêm tại Khiêm cung, Hoàng tử thứ 3 theo đến ở nhà quan xá ngoài cửa Vụ Khiêm, nhân thể cũng gọi [nhà quan xá ấy – TXA. ct.] là Dưỡng Thiện đường), đón hoàng tử thứ 3. Lúc mờ sáng, về đỗ ở điện Quan canh Sở Tịch điền. Hai người cùng các quan ở Sở ấy đều lần lượt lạy mừng.
(Khi ấy bọn Hanh mới đến đón, hoàng tử thứ 3 rất sợ hãi; bọn Hanh ôm lên võng rước đi. Đến khi về đến nơi, hai người nói với hoàng tử thứ 3 là xin lập lên làm vua. Hoàng tử thứ 3 nói rằng: “Ta còn bé, sợ không làm nổi”. Hai người nói rằng: “Tiên đế đã có ý ấy, nhưng chưa kịp làm. Nay là mệnh trời vậy. Xin nghĩ đến tôn miếu, xã tắc là quan trọng”).
Đến sáng rõ, (tức ngày đinh sửu là ngày 30 tháng 10), hai người thông báo cho các quan hiện túc trực đêm ấy ở trong Nội (văn trực thần là tham tri Hà Văn Quan, võ trực thần là quyền chưởng doanh Hùng Nhuệ Trần Văn Cư, tham biện Viện Cơ mật là Hồ Lệ, tham biện Nội các là Lê Duy Thụy, thị vệ sứ đại thần là Tiền quân Tôn Thất Thạ) đều đến họp. (Lúc bấy giờ Đoàn Văn Hội cùng đến).
Khi đồng hồ 5, 6 chuyển, vua mới biết là có sự biến; hỏi đến những người trực thần, thì chỉ có vài người cung Thái giám; vội vàng thất thố, không biết làm thế nào, chỉ phải dự phê tờ chiếu nhường ngôi, để đợi.
Đến giờ mùi, hai người đón hoàng tử thứ 3 vào Viện Cơ mật tạm nghỉ; và đem tờ tâu bỏ vua cũ, lập vua mới, tâu lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu, lấy ý chỉ để thi hành; lại sai mở cửa mạn tây nam (ngày hôm ấy cửa 4 mặt kinh thành đóng kín cả ngày); cho gọi các hoàng thân, cũng lục tục vào Tả vu. Đến nơi thì ai cũng im lặng, chỉ trông nhau mà thôi.
(Duy Tuy Lý vương, Hồng Tu, Hồng Sâm ở ngoài, nghe biết tin sợ bị vạ lây, bèn đem gia quyến đến chỗ phái viên Pháp đóng ở Thuận An cầu cứu. Hoằng Hoá công Miên Triện, Hải Ninh quận công Miên Tằng cũng sợ hãi đi mất. Sau đấy vài ngày, Hồng Phì đi công sai ngoài Bắc về, đến đầu địa giới Quảng Trị, nghe biết tin tự cho là nguy, lập tức thuê thuyền đến hội với Tuy Lý vương. Sau vì phái viên Pháp giao trả về, cùng với Hồng Tu, Hồng Sâm, đều bị nạn).
Lúc bấy giờ, vua sai thái giám là Trần Đạt đem tờ chiếu nhường ngôi, yêu cầu lui về chỗ phủ cũ. Hai người giả cách nhận lời, sai Tôn Thất Thạ đem võng đưa vua cùng phi tần nội cung cho về phủ cũ (ở địa phận xã Phú Xuân), nhưng mật dặn riêng Ích Khiêm, Văn Đễ trực [:chực – TXA. ct.] trước ở ngoài cửa Hiển Nhân, đón đường, sai đưa đến nhà Hộ thành, cho uống thuốc độc giết đi.
(Hộ thành nha nguyên trước là Dục Đức đường, mới đổi tên. Lúc bấy giờ, những phi tần đã cho về trước, để hộ vệ đưa vua. Khi đến đấy, Ích Khiêm, Văn Đễ cho thuốc độc vào nước chè dâng lên; vua không chịu uống. Văn Đễ ra lạy khóc, khuyên rằng: “Vua tôi đến lúc biến không thể làm thế nào được”. Vua nói rằng: “Ta lại không được bằng Thụy quốc công à?”; còn lần chần không uống. Ích Khiêm bèn đem nước chè ấy đổ vào miệng vua; lập tức phát lên như người phải gió. Một lúc lâu, Trần Xuân Soạn ra truyền nói rằng: “Nếu để chậm quá, sẽ phải tội nặng”; lập tức lấy tay bóp họng, vua lè lưỡi, lồi mắt ra, rồi vua mới chết. Đến lúc đưa vua về phủ, thấy chỗ cổ họng vua sưng như cái cung giương lên, ai cũng lấy làm lạ).
Ích Khiêm, Văn Đễ vào bảo rằng: “Lãng quốc công đến đấy đã uống thuốc độc chết rồi”. Hai người bèn rước hoàng tử thứ 3 vào ở điện Hoàng Phúc, đợi sẽ chọn ngày tốt, tôn lên làm vua.
Trần Tiễn Thành cùng hai người ấy vẫn không bằng lòng nhau. Trước đây vì việc tuyên chiếu, đã bị 2 người tham hặc diếc [:nhiếc] móc, giận không quên được. Bọn Hồng Phì mật tâu xin bỏ cường thần, Tiễn Thành cũng có đi lại mật với nhau. (Tiễn Thành đêm thường ngầm đến dinh thự Hồng Phì bàn kín với nhau) . Hai người đã biết. Cho nên việc Tiễn Thành cáo ốm xin về nhà riêng, đều do hai người bắt buộc. Đêm hôm trước họp nhau ở Sở Tịch điền, 2 người cũng có đem bản thảo tờ tâu đến tường với Tiễn Thành, yêu cầu phải theo làm việc ấy. Tiễn Thành lại khước từ, nói rằng: “Bỏ vua nọ lập vua kia, sao có thể làm mãi? Tôi đã bãi chức về nhà, không dám dự việc ấy”. Hai người lại càng ngờ mà ghét. Nhân thể đêm ấy cũng sai người đến giết Tiễn Thành ở nhà riêng (nhà ở ấp Doanh Thị Trung).
Ngày hôm sau (tức là mồng 1 tháng 11) hai người tâu xin chôn vua bằng lễ nghi quốc công, giao cho phủ Tôn nhân chiểu lệ chôn cất. Còn Tiễn Thành thì do phủ Thừa Thiên khám biên cho là bị kẻ cướp giết chết. Đến lúc việc phát ra, ai cũng biết là do 2 người ấy sai người giết, mà chả ai dám nói ra” (***).

---- Phụ lục này (trong cuốn “Nguyễn Văn Tường, ‘những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được’”) đã người biên soạn đã gửi đăng tải trên Tạp chí điện tử Giao Điểm:

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_nvt_phulucI.htm
. ----
---- (*) Hổ phù là tín hiệu để trưng triệu quân lính (chú thích của Viện Sử học).
[**] Về ngày 29.10 Quý mùi, xin xem thêm ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 63 – 64, đã có trích in trong phần phụ lục này. ----
(***) Xin xem lại bài “Lời thưa đầu sách” và chú thích về màu sắc bảo hoàng, chủ “hòa” và sự rụt rè của Quốc sử quán thể hiện ở những đoạn sử tiêu biểu (phụ lục 1 & phụ lục 3 của mục tháng 7 âl., Quý mùi (1883) này), mà người biên soạn đã nhấn mạnh.
Có một điều cần lưu ý: Tờ tâu của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào năm Thành Thái thứ 11 [1899] (ĐNTL.CB., tập 27, sđd., tr.7 – 8), đã hé lộ sự “can thiệp” thô bạo: Gia đình Hiệp Hòa cầu xin khâm sứ Pháp đề nghị vua đương nhiệm ra dụ phục hồi và công nhận danh nghĩa cho Hiệp Hòa là “phế đế” (hoàng đế bị truất ngôi) – “đế” (thay vì “công”) với ý nghĩa Hiệp Hòa vẫn được công nhận là hoàng đế chính thống! Do đó, Quốc sử quán buộc lòng phải chữa lại bản ĐNTL.CB. đã hoàn tất, không ghi là “công” mà phải ghi là “đế” với quy cách kèm theo đối với một bậc đế vương chính thống, “bị phế bởi sự cố của nhà nước, chứ không có lỗi lệch gì cả” (nguyên văn)!
Ở đây, đối với người nghiên cứu sử học, không phải là vấn đề thế thứ theo quan niệm và pháp chế truyền ngôi phong kiến, mà chính là "sự cảm tình" của giặc Pháp thống trị đối với Hiệp Hòa (và hẳn là với cả nhóm chủ "hòa" đương thời, gồm Trần Tiễn Thành, Miên Trinh...). Điều đó, hậu thế chúng ta đọc thấy qua màu sắc bảo hoàng, chủ "hòa", rụt rè khi phản ánh sự thật lịch sử, và nhất là sắc thái phản cảm khi viết về nhóm chủ chiến (Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết...) trên những trang ĐNTL.CB.. Vì vậy, tôi ra đã sức nghiên cứu và đã viết bộ truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử “Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886)” (Nxb. Văn Nghệ TP. HCM., 2004) với ý thức phục hồi, tái hiện chính xác sự thật lịch sử.
Xin xem sự kiện này trong bộ sách trên ở địa chỉ websites:

http://tranxuananpcdtnvt3a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3b.blogspot.com/

Xin xem thêm ghi chú ở đoạn đầu của chương tám kế tiếp.TXA.

________________________

H. CHƯƠNG TÁM

XIX. THỜI LÀM ĐẠI THẦN PHỤ CHÍNH, ĐẠI THẦN VIỆN CƠ MẬT – THƯƠNG BẠC, THƯỢNG THƯ BỘ HỘ, ĐẠI THẦN KIÊM QUẢN KHÂM THIÊN GIÁM, TỔNG TÀI QUỐC SỬ QUÁN (THÁI TỬ THÁI PHÓ, THỰ VĂN MINH ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ, KÌ VĨ HẦU TƯỚC)


++ Ưng Đăng (húy là Hạo, tự là Hỗ), sinh ngày mùng 2 tháng giêng âl., Kỉ tị (1870), con của Kiên Thái vương Hồng Hợi và phủ thiếp Bùi Thị Thanh (người Đồng Dương, Hải Lăng, Quảng Trị). Năm 1871, Ưng Đăng được đưa vào cung, do học phi Nguyễn thị (họ Nguyễn [tên Hương]) nuôi dưỡng. Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết khi lập Ưng Đăng lên làm vua, đã tâu: “Đó là ý của tiên đế, nay là mệnh trời. Xin nghĩ lấy tôn miếu, xã tắc làm trọng” . Tôn nhân, đình thần đã xin ý chỉ Từ Dũ; và Từ Dũ đã chấp thuận. Đây là sự nối ngôi chính thống vì Ưng Đăng đã là hoàng tử chính thức thứ ba của Tự Đức (*).
(ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 18 – 20).
---- (*) Triều Kiến Phúc (Ưng Đăng) được Quốc sử quán xếp vào một kỉ riêng – đệ ngũ kỉ –, xem như ngang hàng với Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức về mặt chính thống. Dục Đức (hoàng trưởng tử, vi phạm luật pháp, bị truất), Hiệp Hòa (vi phạm luật pháp; không phải hoàng tử của Tự Đức) và cả Hàm Nghi (nhà vua yêu nước, nhưng không phải hoàng tử) chỉ thuộc về “phụ chép”. ----



Hết CHƯƠNG BẢY
Xin xem tiếp CHƯƠNG TÁM
ở tệp 8:
http://tranxuanantsbnnvt2. blogspot.com/



Xếp chữ xong chương bảy, vào lúc 10 giờ 45 phút,
ngày thứ hai (thứ ba cũ) 14-02 HB6 ( 2006 )
[17 tháng giêng, Bính tuất HB6 ]
tại Tp. HCM., Việt Nam.

Lưu ý:
Thứ ba (thứ tư cũ), ngày 15-02 HB6 ( 2006 ),
người biên soạn đã sửa chữa lại một số lỗi trong bản đã đưa lên web-blog, thuộc lỗi gõ phím vi tính.

Trần Xuân An

0 Comments:

Post a Comment

<< Home